ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 11:57:56
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Về đâu làng nghề đan đát

Báo Cà Mau (CMO) Trải qua biến đổi, thăng trầm của thời gian, dọc theo con sông Cái Tàu, làng nghề đan đát truyền thống xã Nguyễn Phích, huyện U Minh vẫn còn hiện hữu. Những cái rổ, cái nia, xịa vẫn đẹp bình dị, mộc mạc, bởi bàn tay của những “nghệ nhân miệt vườn”.

Nguyên liệu để làm ra sản phẩm đan đát chủ yếu là trúc. Thế nhưng, những năm gần đây, việc người dân đưa nước mặn vào nuôi tôm làm cho diện tích trồng trúc dần bị thu hẹp. Thiếu nguyên liệu, nếu không phục hồi và mở rộng diện tích trồng trúc thì nghề đan đát truyền thống ở xã Nguyễn Phích có thể chỉ còn là hồi ức.

Vang bóng một thời

Không đan thúng hay mê bồ như ở Tân Bằng, làng nghề đan đát ở Nguyễn Phích chủ yếu đan những vật dụng nhỏ, được sử dụng hằng ngày như: rổ, xịa, xề, nia, giần, sàng. Đó là những vật dụng tưởng chừng như đã bị lãng quên nhưng đến nay vẫn được người dân Cái Tàu gìn giữ.

Làng nghề đan đát Nguyễn Phích hình thành từ những ngày mở đất. Làng nghề tập trung nhiều từ Ấp 1 đến Ấp 5 với hơn một trăm hộ làm nghề. Sau giải phóng, nghề đan đát trở thành nghề tạo thu nhập chính của người dân nơi đây. Với bàn tay khéo léo, một ngày, mỗi người có thể làm ra 2 cái rổ, hoặc 3 cái xịa; còn đàn ông thì làm những việc nặng nhọc như như chặt tre, chẻ trúc, vót vành.

Chị Nguyễn Thị Thu (Ấp 5, xã Nguyễn Phích) đã biết lận nan, đan rổ khi mới 16 tuổi. Gắn bó với nghề đan đát ngót nghét đã hơn 30 năm, bây giờ tóc đã có vài sợi bạc, nhưng chị vẫn trụ lại với nghề đan đát này. Chị Thu tâm sự: “Hồi đó làm nghề này thu nhập khá nên mê lắm, mà thời đó một cái rổ có 4 – 5 ngàn đồng. Đan tới phồng tay luôn mà. Rồi tôi lấy chồng, sinh con, tới giờ vẫn còn đan. Dù có nhiều nghề khác mang lại thu nhập cao hơn nhiều nhưng đã quen với nghề này rồi, bỏ không được”.

Bà Võ Thị Phấn (67 tuổi, Ấp 2, xã Nguyễn Phích) tay đã run nhưng vẫn rất nhanh nhẹn lận từng sợi nan. Từ những năm chồng bà đi kháng chiến đến khi giải phóng, cả gia đình mới được đoàn tụ, nhưng cũng chưa được cùng nhau quét vôi ăn trầu thì ông mất. Bà vẫn ở vậy, đan đát, nuôi con. Trong xóm, những người cùng thời với bà không còn được mấy ai. Dù đã ở cái tuổi gần đất xa trời nhưng bà vẫn miệt mài với cái nia, cái rổ.

Để duy trì nghề đan đát người dân phải đi mua nguyên liệu ở địa phương khác.

Bà Phấn bồi hồi nhớ: “Tôi thấy má làm rồi ngồi kế bên học đan, lận nan rồi biết làm hồi nào không hay. Cả nhà 4 người đan chừng một tuần được cỡ 60–70 cái rổ, cái giần là bán cho ghe. Ghe chạy vô tới đầu kinh, mỗi nhà bơi xuồng nhỏ chở ra đó đếm bán. Mấy chiếc ghe đi Năm Căn, Ngọc Hiển, Thới Bình, có khi qua Bạc Liêu, Kiên Giang để bán, chừng vài ba ngày là hết. Hồi đó toàn xài đồ đan bằng tre, bằng trúc, đâu có đồ nhựa, đồ nhôm như bây giờ. Khi đan phải hết sức tỉ mỉ, chọn trúc, tre mỡ chứ không phải tre tàu nên sản phẩm làm ra đẹp mắt lẫn chất lượng, xài 6 – 7 năm mà chưa hư”.

Đừng để thành ký ức

Trước đây, làng đan đát xã Nguyễn Phích có trên 100 hộ làm nghề. Để hỗ trợ nhau về vốn và nhân công, xã Nguyễn Phích thành lập nhiều tổ hợp tác đan đát, nhưng đến nay chỉ còn 2 tổ hoạt động ở Ấp 5 và Ấp 2 và số thành viên cũng giảm dần, chỉ còn khoảng 20 người. Các tổ còn lại do không có trúc và tre để mua làm nguyên liệu nên không còn hoạt động.

Chị Nguyễn Thanh Tuyền (Ấp 2, xã Nguyễn Phích ) nói: “Thanh niên xóm này ai cũng biết đan, nhưng không ai theo nghề, mà đi Bình Dương, Sài Gòn làm, hoặc đi làm công ty trong tỉnh có thu nhập cao hơn. Chỉ còn mấy bà, mấy cô, mấy chị ở nhà tranh thủ bếp núc, chuyện nhà rồi mới ngồi đan vì vừa kiếm thêm thu nhập, vừa không muốn bỏ nghề truyền thống. Ở đây thu nhập chính dựa vào con tôm chứ thiệt tình cả nhà chỉ làm nghề này thì không sống nổi”.

Bà Lê Thị Cẩm Giang, Tổ trưởng Tổ hợp tác đan đát Ấp 2, xã Nguyễn Phích, ngậm ngùi: “Bây giờ học nghề không khó, cái khó là có sống được với nghề hay không vì không phải ai cũng kiên trì được với nghề đan đát này. Mỗi tháng tranh thủ đan nhiều lắm cũng được 60 - 70 cái. Rồi đếm bán cho xe, xuồng, ghe tới mua, trừ chi phí tre, trúc, dây gân, mỗi hộ lời chưa được 1 triệu đồng”.

Bà Nguyễn Thị Khiếm, năm nay đã 68 tuổi (Ấp 2, xã Nguyễn Phích), là một trong số ít người còn giữ mảnh vườn trồng trúc sau nhà. Gần 40 bụi trúc đã hơn 30 năm, tới mùa bà mới bán cho người làm nghề đan. Khi thảnh thơi là bà ra vườn, tự tay bón phân, vun gốc, chặt nhánh cho từng cây trúc.

Bà Nguyễn Thị Khiếm chăm sóc những bụi trúc còn lại của gia đình.

Bà Khiếm kể lại: “Mấy chục năm trước, cả mảnh vườn gần 1 ha này trồng toàn trúc. Sau này chuyển qua nuôi tôm phải phá bỏ hết, tôi kêu mấy đứa nhỏ chừa lại một ít bụi sau nhà để nhớ về nghề của ông bà”.

Ông Lê Trung Kiên, Chủ tịch UBND xã Nguyễn Phích, cho biết, hiện diện tích trồng trúc của xã bị thu hẹp, chỉ còn khoảng 1 ha, không đủ cung cấp nguyên liệu làm nghề. Do người dân lấy nước mặn vào ruộng nuôi tôm và chuyển qua trồng các loại cây ăn trái khác nên số hộ làm nghề đan đát cũng dần ít đi. Chính quyền địa phương đang vận động bà con tận dụng đất trống để trồng lại trúc, tre nhằm duy trì nghề này. Thế nhưng xem ra, để người dân làm giàu từ nghề thì lời kêu gọi suông là chưa đủ.

Thiếu nguyên liệu, nghề đan đát truyền thống có nguy cơ mai một.

Giờ đây, dọc theo con sông Cái Tàu, hình ảnh những chiếc ghe nườm nượp chở đầy rổ, nia, xịa không còn nữa. Những rặng trúc mọc sau nhà cũng thưa thớt dần, thay vào đó là những đầm tôm mênh mông. Tiếng cười nói của các anh ngồi chẻ tre, các chị ngồi đan cũng không còn nữa. Người nặng tình với nghề cũng chỉ còn vài người cố cựu muốn lưu giữ lại nghề truyền thống này...

Phóng sự của Thảo Mơ

Chị Lữ Thu Hồng, Phó chủ tịch Hội Phụ nữ xã Nguyễn Phích, trăn trở: “Hội LHPN tỉnh cũng có hướng hỗ trợ tổ đan đát, nhưng cái khó không phải thiếu vốn mà thiếu nguyên liệu. Bây giờ muốn đan phải đi kiếm mua trúc khắp nơi. Còn tre, trúc bên Tân Bằng, Biển Bạch chủ yếu bán cho các ghe ở các tỉnh trên về mua với số lượng lớn, chứ không bán lẻ. Điều cần thiết nhất bây giờ là giải pháp phục hồi và mở rộng diện tích trồng trúc, để có nguồn nguyên liệu cũng cấp cho những hộ làm nghề đan đát tiếp tục duy trì nghề truyền thống này”.

 

Liên kết hữu ích

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.