(CMO) Chị bạn làm cùng cơ quan vừa than, mua đồ Tết hổm rày rồi mà mấy đứa con không đứa nào màng tới. Năn nỉ chúng mặc thử coi được không để còn biết mà đổi cái khác, lỡ Tết mặc không vừa thì không đổi được. Vậy mà chúng nhất quyết không thèm mặc. Nghe chị nói tôi giật mình, nhớ ngày xưa…
Hồi đó quê tôi nghèo lắm. Tuy chỉ cách thị xã Bạc Liêu chưa đầy hai mươi cây số nhưng cuộc sống vô cùng khó khăn. Mặc dù mang tiếng là chợ xã nhưng chỉ lèo tèo vài ba tiệm hàng xén, một tiệm may và một tiệm hớt tóc của ba tôi, còn lại đa phần người ta làm ruộng, chẳng ai màng đến chuyện ăn ngon, mặc đẹp. Đám con nít tụi tôi sau khi đi học ở trường làng về là ra đồng phụ giúp cha mẹ nhổ cỏ bờ hoặc đi bắt ốc, hái rau. Đến khi tiết trời lành lạnh là tụ tập khoe với nhau coi năm nay đứa nào được nhiều đồ mới, rồi kể chuyện Tết năm ngoái đi chơi nhà ai, được ăn gì. Chỉ vậy thôi mà ngày nào cũng rôm rả từ sáng tới chiều, có khi cả buổi tối. Ngày nào cũng vậy, cho đến khi nào Tết tới thì thôi.
Đó là chuyện vô tư của con nít, nhưng người lớn thì ngược lại. Gió bấc về là trong lòng thấp thỏm chuyện thiếu đủ ba ngày Tết. Nào là chuyện may quần áo cho con, chuyện dưa, thịt... Ngày ấy, vải may quần áo Tết rất hiếm, không phải có tiền là mua được mà phải mua theo chế độ. Hộ khẩu bao nhiêu thì mua bấy nhiêu, thanh niên đúng 18 tuổi mới mua được vải quần tây, nếu dưới tuổi đó thì mua vải thường. Còn chuyện thịt heo ăn trong ba ngày Tết cũng là chuyện nan giải, phải đi chia chứ ở chợ không có bán.
Khó khăn là vậy nên hằng năm, khi gió bấc về, ngoài chuyện hớt tóc ra, ba tôi còn nhận thêm việc chùi lư đồng để mong có thêm chút tiền mua đồ Tết cho anh em tôi. Má thì than: Lại Tết nữa rồi, sao mà mau quá chừng vậy hỏng biết! Có lần tôi đứng cạnh đó nghe được liền lên tiếng: Con thấy lâu muốn chết luôn mà má nói mau, ước gì mỗi năm Tết hai, ba lần để coi cải lương cho đã. Lúc đó má xoa đầu tôi không nói gì và cười ý nhị.
Nhà tôi rất đông anh em nên trước Tết khoảng hai tháng, má kêu tất cả anh em tôi lại rồi mở rương lấy quần áo năm ngoái ra cho mỗi đứa thử lại. Đứa lớn thử trước, nếu mặc chật thì đứa kế mặc thử, nếu vừa thì lấy đồ đó mà mặc. Cứ vậy từ trên xuống dưới. Đứa nhỏ mặc lại của đứa lớn, cho tới thằng út, rồi may thêm cho mỗi đứa một độ đồ mới nữa là xong. Riêng anh hai tôi thì được may hai bộ đồ mới.
Và sau khi mua được vải chế độ là những đêm dài ba má tôi thức trắng để tự may cho anh em tôi. Ba lấy cái áo cũ của mỗi đứa tháo ra làm mẫu để cắt theo, xong giao lại cho má tôi may bằng tay. Vậy mà trong mắt anh em tôi, những bộ đồ má may là đẹp nhất trần gian. Và đúng mùng 4 Tết, má tôi gom hết đồ mới của anh em tôi lại rồi giặt, ủi thẳng thớm, bỏ vào rương để năm sau mặc tiếp.
Tôi còn nhớ năm anh Hai tôi mười lăm tuổi, cái tuổi chưa được mua vải quần tây, nhưng anh đã nổi giò như một thanh niên, bỏ xa mấy đứa bạn bằng tuổi trong xóm. Vì vậy, ba tôi bàn với má không bán khúc vải quần tây nữa mà để may cho anh tôi (thường hằng năm, khúc vải quần này ba không may cho ba mà bán để mua lại nhiều vải hơn may đồ cho anh em tôi).
Vừa nghe qua, tôi giãy đùng đùng vì đó là cái quần mà tôi hằng mơ ước được mặc nó. Vậy là tôi chạy vô kẹt bồ lúa ngồi khóc nguyên buổi sáng, má dỗ cỡ nào cũng không chịu nín. Cuối cùng, má hứa năm sau không cần biết anh Hai có còn mặc vừa hay không thì cái quần đó cũng là của tôi. Nghe vậy, tôi nín ngay tức khắc.
Năm sau, khi má vừa mở cái rương ra là tôi chộp ngay cái quần tây liền, đem giấu vô hũ gạo, không cần thử coi vừa hay không vừa. Mùng một Tết năm đó, khi cả nhà còn ngủ, tôi đã thức và lấy cái áo pizama của má may và cái quần tây mặc vào. Có lần tôi thấy trên ti vi người ta bỏ áo vô quần thiệt đẹp, vậy là tôi làm theo. Ngặt nỗi tôi lùn hơn anh Hai nên cái quần kéo lên gần tới ngực, mất hết hai cái túi áo pizama trông rất ngộ nghĩnh. Tôi lấy lọ dầu bintin của ba thoa lên đầu rồi chải bảy ba mướt rượt, đứng ngay trước cửa nhà. Ai đi ngang qua cũng nhìn rồi cười sặc sụa làm tôi càng thích thú, cứ tưởng người ta khen mình đẹp nên càng khoái. Đến khi má tôi thức dậy, vừa thấy tôi, má tá hoả vì cái kiểu ăn mặc chẳng giống ai của tôi. Má nhẹ nhàng kéo tay tôi vô nhà rồi giải thích, áo nầy không bỏ vô quần được mà nên mặc cái áo kia đi. Nhưng nói cỡ nào tôi cũng không chịu nghe, cứ đi tới đi lui chờ mấy đứa bạn tới để đi chơi.
Ba tôi ngồi gần đó uống trà nghe hết câu chuyện, biết là khó thuyết phục được tôi nên bước lại nói với má: "Thôi, bà đừng kêu nó thay ra nữa, coi như bộ đồ nầy là đồ “tân cổ giao duyên” vậy đi". Nhờ ba lên tiếng mà tôi được mặc luôn bộ đồ đó đi chơi với bạn bè trong sự “ngưỡng mộ” của tụi nó.
Chuyện đã qua hơn bốn chục năm nhưng bây giờ mỗi lần về ăn Tết, lần nào má cũng nhắc lại làm anh em tôi có một trận cười nghiêng ngả, còn tôi thì xấu hổ đến chín người./.
Khởi Huỳnh