ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 7-6-25 16:57:51
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Anh Nguyễn Phong Triều

Báo Cà Mau Tôi định viết một cuốn sách về cơ quan cũ của mình - mà trong đó hình ảnh thân thương của anh Nguyễn Phong Triều (Út Triều) hiển hiện tươi vui như khi chúng tôi tuổi trẻ. Còn ở bài này, tôi lược ghi sơ nét về anh, về Tiểu ban Văn nghệ và vài anh chị em khác, gần gũi bên anh…

Tôi định viết một cuốn sách về cơ quan cũ của mình - mà trong đó hình ảnh thân thương của anh Nguyễn Phong Triều (Út Triều) hiển hiện tươi vui như khi chúng tôi tuổi trẻ. Còn ở bài này, tôi lược ghi sơ nét về anh, về Tiểu ban Văn nghệ và vài anh chị em khác, gần gũi bên anh…

Hầu như không ai có lần trò chuyện với Út Triều mà không dành cho anh những tình cảm tốt đẹp. Ngôn ngữ, cung cách của anh giàu chất cổ vũ, thuyết phục người khác. Nhớ lần gặp anh ở kinh Nhà Máy, xã Khánh Bình Tây, anh công tác Tuyên giáo Khu, còn tôi dạy lớp nhì B Trường Tiểu học ấp Nhà Máy. Cơ quan anh ở nhà chú Tư Ngộ - nhà cây lá nhưng rộng lớn khá giả. Sân trước đầy hoa, xung quanh là dừa, cau, tre, trúc xanh tươi hớn hở, lưu dấu không khí thanh bình sau đình chiến cho đến đầu năm 1956. Mười Vinh con trai chủ nhà, bạn cùng tuổi với tôi đến vỗ vai:

- Anh Út muốn gặp!

Tôi chưa kịp hỏi “Anh Út là ai?” thì anh xuất hiện. Bàn tay xương xẩu của anh siết chặt tay tôi:

- Tôi là Út Triều, nghe chú biết làm thơ… Ta sẽ là bạn của nhau, cùng biến văn nghệ thành vũ khí chiến đấu. Cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất đất nước qua con đường hiệp thương tổng tuyển cử, hay lại phải chiến tranh… Ở mọi thời điểm, mọi giai đoạn đều cần đến thơ ca. Hy vọng tôi, chú và nhiều anh em khác sẽ góp phần xứng đáng.

Sức mạnh ngoài câu nói của anh như cuốn quanh tôi. Bấy giờ là tháng cuối năm 1955, ta chuyển hướng vào công tác bí mật. Tôi vừa 17, còn anh Út 31 tuổi. Anh trẻ trung, sôi nổi, nhưng xanh gầy, da có nhiều chấm đỏ. Anh nói về sức khoẻ và dạy tôi tập thể dục, hít thở đẹp theo kiểu “cô hái hoa mơ”. Khi chia tay anh nói tiếp:

- Chúng ta sẽ khắc phục muôn vàn khó khăn để xuất bản một tờ tin, một tờ báo, hay một tạp chí cũng nên. Số đầu hoặc sau đó liên tục, có in thơ của chú. Ðược chứ? Anh hỏi tôi và cười giòn giã, hồn nhiên. Anh cho tôi biết, thơ đã có Hải Tùng, Lê Chí, Minh Thuỳ, Hồ Thu… Văn có Nguyễn Mai, Tam Nghị, Hoàng Nghệ, Minh Huệ, Minh Phượng và nhiều anh chị em khác…

Khi tôi làm liên lạc cho Xứ đoàn Thanh niên Cứu quốc và Toà soạn Báo Nhân Dân miền Nam, tôi biết nhiều anh chị, nhưng chưa ai có nét riêng như anh Út Triều. Anh nói về triết học, chính trị, lịch sử, văn hoá… đều trôi chảy. Nền văn minh nào tồn tại ở đất rừng Tân Hưng Tây - Phú Mỹ hun đúc nên một nghệ sĩ như vậy? Cà Mau, về nhiều phương diện, thật kỳ diệu! Ta sẽ cùng tìm hiểu điều này trong một dịp khác.

Cũng tại nhà chú Tư Ngộ, hoặc xê dịch qua nhà chú Sáu Neo, nhà cô Chín Cư, dì Ba Ðinh, anh Ba Ngài… Tôi thường đến với anh Út. Có lần anh đưa tôi mấy bài thơ anh mới viết, trong đó có bài “Em Chảy”, tôi đem về trường làm bài học thuộc lòng cho học sinh. Bài thơ mô tả em bé miền Nam đau trái hấp hối, nhờ cha mẹ lấy bức ảnh Bác Hồ em giấu trong cặp vở, đem cho em nhìn để vĩnh biệt… Tôi và các bạn đọc nhỏ của bài thơ xúc động rơi nước mắt.

Gặp lại anh Út tôi có nói điều này. Nhưng anh phân bua:

- Tôi  làm thơ, viết văn sẽ không bằng mấy bạn. Bởi vì tôi phải viết văn kiện, báo cáo, hiệu triệu, truyền đơn. Tôi tham gia sáng tác để tạo đà cho anh em mình, tôi bận… Thơ văn của anh em xuất hiện tôi mừng vui như của mình viết ra. Tác phẩm văn học cách mạng với sức vô địch, là tài sản chung của chúng ta, ai cũng được ghé vai tự hào.

Anh đọc lướt mấy bài thơ vừa đưa của tôi, nhận xét: “Thơ chú có âm nhạc và hình tượng nghệ thuật. Nhưng ta cần những bài tha thiết hơn nữa, xung trận quyết liệt hơn nữa, giàu đức tin và tính thuyết phục hơn nữa. Ðảng ta yêu cầu, dân ta mong đợi các nhà văn, nhà thơ của mình hát lên điệp khúc chiến đấu và chiến thắng lần hai, đánh tan kẻ thù mới là đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai. Chúng ta có một thứ vinh dự dành riêng cho người cầm bút ra trận…”.

Mấy tháng sau, tôi thấy trên báo "Hoà bình thống nhất” có một đoạn thơ của tôi. Và một đặc san có trích mấy câu thơ của tôi trong bài “Qua vườn văn học miền Tây, hái ít cành thơ ngạt ngào tình Ðảng”. Lúc sau tôi mới biết bài bình thơ này do anh Út viết: Một cách bình thơ thật hay!

Tôi không nhớ hết khi mình chưa đầy tuổi hai mươi, anh Út Triều đã cuốn tôi vào con đường thơ ca như thế nào, dù trước anh tôi đã được các Nhà thơ Nguyễn Hải Trừng, Hồ Thiện Ngôn khuyến khích, chỉ dẫn luật thơ. Nhưng anh Út đối với tôi, với chúng tôi: có một vai trò rất đặc biệt - mà tôi chưa tìm được từ để nói ra. Anh là một trong những động lực khiến tôi chọn thơ làm sự nghiệp, tuy chẳng có thành công như ý, nhưng thơ thật sự cho tôi một cuộc đời như tôi vậy. Và như vậy có nghĩa là tôi mãi nhớ anh, dù năm tháng cứ phôi pha…

***

Mười năm sau những lần gặp gỡ đầu tiên, tôi lại gặp anh Út Triều trong một cuộc hội nghị ở rừng đước, trên bờ sông Dì Chảo. Anh vẫn tươi vui và hấp dẫn như xưa. Anh báo tin Lê Chí, Thanh Trần, Minh Thuỳ đều mạnh khoẻ, viết, soạn nhạc hăng hái sau những chuyến đi thực tế ở các tỉnh. Anh bảo đã đọc mấy bài thơ mới của tôi, báo và đài ở các nơi đang sử dụng. Còn anh, văn bản hiệu triệu Ðồng khởi là một áng văn đầy sinh lực với sức khái quát cao. Anh nói:

- Anh em ta đều tiến lên. Nhưng mấy chú thì “bay” còn tôi thì “bò”. Song, cái vui là nhạn và rùa cùng đi về một hướng, mấy chú đi “vèo”, còn tôi đi “lụp cụp”. Anh lại cười giòn giã thoải mái…

- Lúc này tôi đã về cơ quan Thanh vận Khu, công tác chung với anh Năm Hạnh, chị Út Nhì, Sáu Nhứt - cơ quan đóng ở Rạch Cột Nhà, Chim Ðẻ, Bọng Két - nơi tôm cá lềnh sông, cua bò lỏm ngỏm. Tôi viết bài "Gởi Cuba" ở đây và bản thảo phải giấu các anh chị triệt để. Tôi phải viết báo cáo và nghiên cứu tài liệu vận động quần chúng thanh - thiếu niên, chớ không để thơ làm sao lãng. Vậy mà tôi vẫn cứ lén lén làm thơ. Mười Nho là một sinh viên, rất yêu thơ. Hai anh em cứ to nhỏ thầm thì. Ðọc bài "Gởi Cuba" và "Trở lại U Minh". Mười Nho cho rằng tôi đã thành nhà thơ rồi! Hãy viết mạnh lên đi! Và anh Năm Hạnh sợ tôi bỏ cơ quan sang chỗ văn nghệ của anh Út Triều nên “kềm” tôi rất chặt… Hăm he kỷ luật tôi nếu bỏ đi!

Anh Út nghe tôi nói như vậy, có hứa bàn với Khu uỷ xin tôi sang chỗ anh. Anh hứa sẽ cất cho tôi một cái chòi giữa bóng đước xanh tươi, để tôi yên tĩnh tha hồ tìm vần điệu. Tôi chờ nghị quyết điều tôi sang văn nghệ, nhưng các anh tiếc tôi có năng lực thanh vận nên cứ bàn tới lui mãi…

Một buổi sáng chỏi hỏi, khi mặt trời bừng lên ngọn rừng thiêng, nước biển thổi vào ngõ ngách sông rạch, tôi nhanh chóng thực hiện một chuyến đi “lịch sử”; khá nổi tiếng. Tôi thu xếp tài liệu và vũ khí tự vệ để lại cho cơ quan một lá thư từ biệt (mà tôi phải viết đi viết lại nhiều lần). Quần áo, mùng, võng… tôi dồn xà ngầu vào cái bòng bột nhuộm pin đèn, có cột quai mang. Thấy vắng người, tôi nhanh nhẹn xuống xuồng quay chèo, lưu luyến khi rời cơ quan thanh vận thân yêu - nơi tôi nhiều năm gắn bó và trưởng thành. Tôi vắng mặt ở hội nghị thành lập Ban Chấp hành Khu đoàn Tây Nam Bộ, các anh chị băn khoăn quá. Anh Năm Hạnh đọc lá thư từ biệt của tôi, mọi người lại yên tâm làm việc, không phải dời điểm đi nơi khác, khi có chuyện bất thường như có cán bộ trốn đi…

Tôi thờ phào nhẹ nhõm lúc chèo ghe ra sông Vàm Ðầm. Thế là “thoát” cái nạn hội nghị và viết báo cáo. Nhưng lòng tôi cũng cồn cào đau xót vì việc mình làm khá khác thường, ảnh hưởng tới cơ quan hai bên. Tôi phải hát vang lên cho hăng hái. “Nếu Út Triều không dám nhận ta thì về huyện nhà làm du kích với lựu đạn và súng trường bá đỏ". Song tôi không thất vọng, bởi anh Út và các đồng nghiệp thực hiện lời hứa một cách ngoan cường. Tôi về Văn nghệ Khu như về nhà mình, tràn ngập niềm vui và tình thương yêu. Cũng nhà sàn trong rừng đước mà sao khang trang, đĩnh đạc lạ thường. Nội nhật, tôi có một căn chòi - thì ra anh Út cho anh em cất sẵn. Anh Út dẫn tôi đi chào anh em các bộ phận thuộc tiểu ban, sau đó sẽ sang chỗ Ban Tuyên huấn - vì anh Út mong muốn tôi chỉ bị khiển trách, chớ không phải cảnh cáo ghi lý lịch hay bị khai trừ vì tôi tự do vô kỷ luật (tự bỏ cơ quan đi). Tôi an ủi ngược lại vị thủ trưởng mới:

- Giá nào cũng chấp nhận cả, anh Út. Cuộc cách mạng còn dài, tôi còn biết bao nhiêu dịp cống hiến. Tôi về địa phương hay đi bộ đội cũng nên!

Ðúng là cơ quan văn học nghệ thuật của cả một vùng đất “địa linh nhân kiệt” - nơi cả nền văn hoá kháng chiến Nam Bộ chín năm còn lưu lại nơi đây. Anh chị em văn nghệ và nhân viên cán bộ ở tiểu ban văn nghệ khu bấy giờ thật dễ mến, sẵn sàng bù đắp cho nhau. Gương mặt nào cũng tươi rói: “Ðúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” và lần lượt siết tay tôi.

Tôi không còn nhớ rõ tiểu ban văn nghệ bố trí ra sao. Ðại thể: Văn thơ, xuất bản anh Út Triều phụ trách. Lê Chí, Minh Thuỳ, tôi, lúc sau có anh Lê Vĩnh Hoà ở đây với tạp chí Sông Hậu. Hoạ có anh Lê Ấn phụ trách. Nhạc anh Thanh Trần phụ trách. Văn công, anh Mười Nam, Sáu Quả, anh Văn Hiến, chị Nhị Hà, anh Ba Cao (Thanh Trần) phụ trách, văn phòng anh Mười Sườn phụ trách, y tế có em Loan… Hơn hai trăm con người say mê nghiệp vụ chuyên môn, có năng lực riêng và giàu nhiệt tình cách mạng, vừa tham gia chống giặc vừa sáng tác, biểu diễn - mà anh Út Triều là trung tâm.

Cơ quan đóng hai bờ kinh Ông Ðơn - một bộ phận và văn phòng cất nhà sàn trên đất ông Giáo Ngọc. Anh Ba Thanh Nha, anh Hai Ngọc Cung, Nhạc sĩ Phan Miêng, Nhà văn Phạm Minh Hoà… Từ C112 lần lượt về khu, ở đây. Anh Lê Vĩnh Hoà thoát nhà tù Chí Hoà, về Sóc Trăng. Ghé nhà chốc lác, lại đến L1C tôi vừa say văn nghệ. Anh Hoà xanh xao gầy ốm.

Anh Út rủ tôi kiếm cua, mực ở các trại đáy Kinh 17, Vàm Ðầm về bồi dưỡng cho anh Hoà. Tháng sau anh Nguyễn Văn Bổng với bí danh Trần Hiếu Minh (Tám Nhàn) xuống mở lớp tập huấn văn học trong hậu kinh Ông Ðơn - cạnh nhà dì Sáu Ðời (Út Liễu) anh Sáu Kiên, Xuân Triều, Ngọc Tám, Minh Thuỳ, Năm Bắc… đều được đến dự, thời khoá 3 tháng. Anh Út vừa làm thầy, vừa làm trò với các anh em và hát rất hay bài “Cánh chim Kơ-tia” của Vĩnh An. Hoạ sĩ Lê Tâm ở nhà dì Sáu Ðời, hễ rảnh là hay qua lớp văn trò chuyện hò hát. Tôi nhớ khi bế giảng, anh em ra huyện xin con chó cò 14 tuổi, đem về đập đầu, sau đó nó thoát chạy, mang vết thương về với chủ. Anh em ta lại chèo xuồng lên xin phép ông chủ bắt lại, ông chủ phải khóc, nhưng vẫn giữ lời hứa. Anh Tám Nhàn (Nguyễn Văn Bổng) không hề gắp thịt chó cari. Anh em vệ sĩ nhậu tưng bừng tới khuya mà nồi cari còn một nửa - con chó hơn hai mươi ký!

Ðợt này Lê Chí đi thực tế Trà Vinh chưa về. Cơ quan bố trí tôi đưa anh Hoà đi công tác, thâm nhập vào các đơn vị bộ đội 303, 306, 309 chủ lực Tây Nam Bộ để viết về người nông dân cầm súng bảo vệ và giải phóng đất nước. Anh Út Triều tiễn chúng tôi ra tận cầu thang:

- Lê Vĩnh Hoà và Nguyễn Bá đi chuyến này, lúc trở về nguyên vẹn là thắng lợi. Còn viết được nhiều ít là yêu cầu phụ. Các bạn là vốn quý của văn nghệ miền Tây. Cùng với Mai Chí, Thanh Trần, Minh Thuỳ… Các bạn không được chết!

Cảm động trước sự lo âu chân tình của người phụ trách, anh nói:

- Anh Út đừng lo, tôi tưởng chết mấy lần, mà vẫn sống!

Hơn một năm, anh em tôi về lại cơ quan, người vui nhất chính là anh Út, Ba Cao (Thanh Trần), Tư Mới (Minh Thuỳ) đều ngưng việc chạy đến mừng nhau. Anh Hoà đi đợt này mang về cho cơ quan đến bảy truyện ngắn xuất sắc (trong đó có “Người hàng xóm”, và “Người săn máy bay” với một tập bút ký chiến sự và hai ba cuốn sổ ghi chép tư liệu chiến trường, đầy ắp. Tôi chỉ có công bảo vệ và phục vụ cho anh Hoà viết, không có bài thơ nào để trình làng. Nhưng anh Út và anh em an ủi: “Sống trước, sẽ viết sau, lo chi”.

Kế đến, chúng tôi được giới thiệu thủ trưởng mới là anh Tư Dân thay anh Vũ Sơn làm trưởng tiểu ban, anh Út Triều vẫn giữ nhiệm vụ phó tiểu ban - phụ trách văn học, nhạc hoạ và văn công như cũ. Cơ quan dời ra Thanh Tùng, đóng trong nhà và sau vườn nhà chị Tư Hồng, chị Sáu Biên. Năm 1967, nhân ngày đấu tranh cho sự nghiệp hoà bình thống nhất đất nước, Bác Hồ kính yêu ra lời kêu gọi như hịch truyền. Lê Chí cảm xúc mãnh liệt, viết bài thơ “Nghe lời Bác” đánh dấu một bước sáng tác mới của ngành thơ Khu 9. Bài thơ được dựng tiết mục sân khấu của đoàn văn công đi trình diễn khắp nơi và đài Hà Nội, đài Giải Phóng phát liên tục. Ðưa thơ lên sân khấu lần này là sáng kiến của anh Út Triều.

Cũng thời gian trú đóng nơi đây, cơ quan tăng thêm nhân số rất nhiều. Sau khi anh Tám Nhàn (Nhà văn Nguyễn Văn Bổng) về C112 (Trung ương Cục ở “R”) Ban Tuyên huấn “R” tăng cường cho Khu 9 nhiều cán bộ. Anh Thái Hoà xuống mở trại Hoạ, gom cả bốn năm chục học viên ngành hoạ trong khu đến tập huấn, điểm tại kinh Hiệp Hoà, xã Quách Văn Phẩm. Cả Lê Ấn, Vũ Ba, Văn Nhiệm, Văn Bình, Lê Phúc và các học viên trẻ như Thanh Tuấn, Thiện Chiến, Thanh Phong (sau này đều trở thành hoạ sĩ và nhà điêu khắc). Văn công kèn trống, màn, trang phục, bề bộn thế mà vẫn xông ra vùng ven và đồng bằng để biểu diễn phục vụ bộ đội, dân công, Nhân dân và sĩ quan binh sĩ, nhân viên công chức nguỵ quyền địch. Anh Út Triều vừa soạn kịch, vừa làm đạo diễn và tiến dẫn đoàn văn công như một đơn vị hành quân.

Anh Ba Cao, anh Mười Nam, chị Nhị Hà (nghệ sĩ biên đạo múa) cùng trong Ban chỉ huy đoàn. Anh Sáu Phong, Hồng Minh (cán bộ tuyên truyền và điện ảnh khu) cùng tôi đi chiếu phim ở chiến trường Cần Thơ - Phim “Lửa trung tuyến” và “Lửa hận rừng dừa” được giới thiệu trong đợt này. Anh Hoà, theo gợi ý của Khu uỷ và Ban Tuyên huấn Khu, vào đơn vị gang thép 303 đang hoạt động ở địa bàn Cần Thơ. Trận diệt trực thăng đổ quân ở Xẻo Dá, xã Vĩnh Viễn - Long Mỹ - Cần Thơ, anh Hoà hy sinh cùng hơn 60 chiến sĩ và cán bộ ta. Ðịch bị diệt, bị thương hơn hai ngàn tên và bỏ xác hơn mười máy bay lên thẳng. Chiến trận xảy ra ngày mùng 7 Tết Ðinh Mùi 1967. Sau đó 2 ngày, chúng tôi (phần lớn có mặt tại chiến trường Cần Thơ) thông báo tin buồn cho nhau. Anh Sáu Phong làm vịt để cúng anh Hoà. Anh Út Triều vô cùng đau xót, nỗi đau buồn hiện lên trên mặt anh khó dùng từ để nói. Anh cùng anh em văn công ra vàm kinh Hoả Lựu, nơi có nấm mộ mới đắp của Nhà văn Lê Vĩnh Hoà, thắp hương và bắn súng tiễn biệt nhau. Anh Út Triều nói với vong linh câu gì chúng tôi nghe không rõ. Có lẽ anh bảo rằng anh Hoà mất đi, chưa có ai và không có ai trong những người còn lại thay thế nổi. Nền văn học Tây Nam Bộ vừa nhận lấy thiệt hại hết sức to lớn. Mà thật vậy, cho đến nay, hơn bốn mươi năm anh Hoà “ra đi”, chỗ trống chưa bù đắp được!

***

Mùa xuân Mậu Thân 1968, Văn nghệ Tây Nam Bộ góp phần mình vào tiến công và nổi dậy. Anh chị em văn nghệ sĩ đều ra trận, “giáp lá cà” với kẻ thù. Ngành thơ, nhạc có những tác phẩm xứng đáng với tầm vóc của chiến trường ác liệt. Nhưng sau đợt hai, đại bộ phận rút về trung tuyến ở Ðồng Tranh (Cái Nứa - Ba Ðình) thì chị Nhị Hà vì bi kịch của tình yêu và gia đình đã dùng súng tự sát. Là một đạo diễn tài năng, chị chuẩn bị cho cái chết kỳ lạ của mình trước mặt anh em đồng nghiệp. Chị mời anh Út Triều, anh Ba Cao, anh Tư Mới, anh Mười Nam, anh Ba Lành, anh Ba Chân. Các anh rủ nhau đến chòi của chị uống trà ăn bánh. Chị làm mọi người vui vẻ. Ðến gần mãn cuộc vui, chị chuyển nội dung đột ngột sang “vĩnh biệt” anh em. Chị xin lỗi vì cái chết tự ý của chị sẽ làm phiền tập thể, để một vết đen cho văn nghệ miền Tây. Nhưng chị không thể chọn cách nào thay thế… Anh Út Triều ngồi cùng bộ vạc với chị Hà cùng với nhiều anh em như đã kể trên tìm mọi cách khuyên can chị. Nói chuyện vui, năn nỉ, giảng giải triết lý thiệt hơn… Song, cuối cùng tiếng súng đã nổ. Phát đạn 9 li xuyên qua chót tim, làm chị ngã xuống bất tỉnh. Sau một cuộc giải phẫu chị mới chết. Chị có lời dặn: Khi chôn chị, không nên đắp núm mộ, mà đạp đất bằng, cho cỏ dại mọc nhanh lên, coi như trên đời này không có chị. Anh Út, anh Tư Mới cùng anh chị em trong đoàn văn công, đoàn ca múa nhạc an táng chị nơi gò đất hoang, gần cây ô môi để nhớ chỗ. Anh Tư Mới đem hoa mười giờ đến trồng. Ðây là loài hoa bé nhỏ khi còn sống chị yêu thích. Khi tôi ở chiến trường Sóc Trăng - Bạc Liêu về, anh Út chậm rãi nói về cái chết đáng tiếc của chị Hà. Từng lời anh Út nói, như rót nỗi chua xót vào lòng tôi. Mới ngày nào, bốn anh chị em (Nhị Hà, Lê Vĩnh Hoà, Thanh Trần, Nguyễn Bá) được cơ quan phân công đi dự hội nghị tổng kết chiến công toàn quân khu ở Ðông Hưng đến Bến Ðào thì bị giặc nhảy dù càn quét. Chị Hà ở nhà dân hợp pháp. Ba anh em trai theo du kích tránh giặc sau rẫy khóm. Chiều, giặc rút, bốn chị em xuống xuồng tiếp tục chèo đi. Chị Hà cao hứng ngồi trước mũi xuồng hát bài “Ðôi bờ”: “Và đời em chỉ biết yêu anh, một tình yêu thiết tha…” chị hát hồn nhiên, say mê. Mây nước như cùng chị xao xuyến theo lời ca giọng nữ trung tuyệt đẹp. Da chị trắng hồng, ngực gọn ghẽ, tóc bay xoà quanh trán khi gió phất. Vậy mà giờ đây chị nằm u uất dưới mồ. Câu hát cũ biết còn theo chị?

Sau đó, có lệnh rút về hậu tuyến. Tôi đi Trà Vinh, Cần Thơ năm sáu tháng sau về, cơ quan đã vào đóng vùng hữu ngạn Kinh 17 (Lung Bông Súng, kinh Hai Trăm) rừng đước. Giặc bắt đầu tập trung phản kích mạnh. Bình định lấn chiếm diễn ra khắp nơi, vùng giải phóng của ta bị thu hẹp thật sự từ cuối năm 1968 và đầu năm 1969. Quân số của ta bị hao hụt nặng, ngay quân số của Tiểu ban Văn nghệ và cơ quan bạn là phòng điện ảnh khu, cũng như nhiều cơ quan khác. Nhưng khí thế “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vẫn bao trùm. Lê Chí bấy giờ còn bận ở chiến trường biên giới - tuyến đường 1-C anh hùng. Tôi về thấy cơ quan đã xây nhà ở, văn phòng hội trường, nhà ăn, phòng y tế… trong rừng đước khang trang. Những cây đước cao lớn dình dàng, chang cung cung, kiềm chắc xuống đất, khác lạ mọi loài cây gỗ, hiên ngang dưới trời. Hội trường đẹp quá, sàn đước phẳng phiu. Những nghệ sĩ chân chính, sau khi ra trận, đều có những nhận xét về tình thế. Nhưng quang cảnh tập dượt múa hát, diễn kịch sôi động cả cánh rừng u tịch, làm chúng tôi lạc quan hơn. Anh Út chỉ đạo dựng hình tượng Tổ quốc khi Nhạc sĩ Thanh Trần và Phan Thao diễn tấu bài thơ "Chúc Tết 1969" của Bác Hồ. Hình tượng và âm nhạc hoà nhập vào lời thơ tạo hiệu quả thiêng liêng. Múa sạp, múa “Hái chè bắt bướm”, ca khúc hùng tráng “Khi thành phố chúng ta nổi dậy” được dàn dựng ở đây, đồng thời với nhiều vở cải lương và kịch “Trái dưa hấu” (do anh Út biên soạn) khẩn trương hoàn chỉnh nơi đây để đi biểu diễn.

Sau đó, chúng tôi cùng cơ quan thuộc Ban Tuyên huấn Khu rút Út Triều về tuyến U Minh, đóng trong hậu Kinh 24, có lúc qua đóng ngọn rạch Cái Bát, kinh Xáng Cụt, rồi trở qua hậu kinh Ông Ðơn, lại trở lại Khánh Bình Tây đóng dọc Cơi Ba, Cơi Tư, Cơi Năm (ven rừng tràm). Ban lãnh đạo cơ quan Văn nghệ Khu được trên bổ sung anh Hoàng Nghệ (Sáu Nghệ) làm Trưởng Tiểu ban thay anh Tư Dân; anh Út Nghệ (Nhà thơ Nguyễn Hải Tùng) làm Uỷ viên Tiểu ban, anh Sáu Quả làm Uỷ viên Tiểu ban. Cuộc hội nghị hai tuần lễ tại kinh Ông Ðơn để thu xếp nội bộ là một kỷ niệm đáng nhớ của anh chị em văn nghệ khu. Nhà thơ Lê Chí vẫn còn bám sát chiến trường biên giới Rạch Giá - Hà Tiên. Chúng tôi bàn mãi phương án mới cho sự tồn tại của ngành mình. Cuối cùng, sắp xếp lại tổ chức và đơn giản bớt nhân sự cho gọn nhẹ. Ðưa nhiều anh em về tỉnh hoạt động. Giải thể các đoàn văn công - kể cả đoàn văn công Khmer. Anh Út Triều không còn phụ trách, làm cán bộ sáng tác văn học, anh được nghỉ phép thu xếp gia đình trong thời gian ngắn, rồi lên cơ quan cùng tôi đi vào các đơn vị chủ lực miền Tây để viết về người lính Cụ Hồ ở miền Tây.

Chị Út đã mất vài ba năm trước. Khi cơ quan ở kinh Hai Trăm, chị và các cháu ở gần đó. Nhà chị Út quá nghèo khổ, dù cơ quan thường hỗ trợ gạo, tiền cho chị. Là con gái cưng của gia đình điền chủ phong lưu, nhưng vì bảo toàn uy tín chính trị cho chồng, chị tuyên bố cắt đứt quan hệ gia đình thân tộc mình, triệt để theo cách mạng. Chị ở trong căn chòi lá rách nát, cây lót sàn lỏng chỏng. Nguồn sống là hai cái “vó” đặt tôm cá mé trảng. Các cháu Thu Ba và Lam… theo cha mẹ và lớn lên trong một bối cảnh độc đáo như vậy. Các cháu sáng dạ lạ thường, chịu đựng gian khổ cũng lạ thường. Chị Út mất vì bị bướu độc cổ mà không có điều kiện trị bệnh…

Khi anh Út trở lên, tôi và anh chèo chiếc xuồng bể mũi, hướng về tuyến sông Trẹm - Xẻo Rô, Cán Gáo - Tân Bằng vào đơn vị Lộc Ninh làm phóng viên chiến trường. Nhiều hoạ sĩ trẻ, nhiếp ảnh viên, các bạn ở điện ảnh, thông tấn cấp khu, nhập vào chúng tôi, thành một nhóm văn nghệ rất “bề thế”. Anh Út bị đứt một ngón chân ở bàn chân mặt khá sâu. Muà nước ngập, phân chuồng gà, chuồng heo nhà dân trôi nổi lềnh bềnh. Anh Út cà nhắc tới lui, vết thương bị nhiễm trùng, phải nhờ y tá bộ đội cạo rửa và băng bó. Sau đó, khi mời anh ra cứ hoặc sang nhà Ban chỉ huy hội họp, anh em bộ đội trẻ cõng anh đi nhẹ nhàng. Các bạn khen anh ốm nhom, nhẹ hững, cõng không mệt!

Anh Út hoà nhập bộ đội hồn nhiên tươi trẻ tuyệt vời. Tôi cũng không ngờ anh thư thái và lạc quan rất mực như vậy. Từ khi bước chân vào hàng ngũ cách mạng, anh luôn được khen ngợi và luôn được ở vị trí chỉ huy. Cuối thập niên sáu mươi, khi cách mạng miền Nam gặp phải khó khăn thách thức lớn, cơ quan văn nghệ khu lại rạn nứt, biến động, anh phải “đóng vai” người lính trơn, hoà nhập thành công vào đại đoàn quân hăng hái ra trận. Tôi chắc anh cũng buồn, cũng mặc cảm. Nhưng do trình độ, do quan điểm nhân sinh - và do thực tế cuộc sống chiến trường đã cổ vũ khích lệ anh. Anh vượt qua được chính mình và có nhiều tác phẩm văn - thơ xuất sắc, trong đó có bài “Bạn là lính Bác Hồ”.

Trở lại năm 1965, vùng giải phóng các tỉnh miền Tây Nam Bộ còn khá rộng lớn. Bưng biền vườn ruộng của ta bấy giờ còn khá “huy hoàng”. Anh Út Triều và tôi cùng vượt sông Hậu sang Trà Vinh công tác. Chúng tôi đến tận bờ biển cát Trường Long Hoà. Anh Út Triều sang trọng trong hào quang người phụ trách cơ quan Văn nghệ Khu - chỉ huy một tập thể nhân tài nổi tiếng ở khu vực. Anh đi có vệ sĩ và chế độ ưu đãi các địa phương. Gần một năm dành cho chuyến công tác này, anh gặt hái nhiều thành công, anh ghi chép và sáng tác nhiều bài xuất sắc. “Ðêm Trà Sết” là một trong chùm bài tiêu biểu. Hình ảnh của anh với bút hiệu Mạc Văn Chi là bộ đồ âu phục (sơ-mi trắng, quần tay đen). Chiều dạo mát trên bãi cát với bộ đồ pi-za-ma xanh cánh diệc. Anh thích đi trên cát và ngồi bổ dưa hấu đỏ ruột dưới bóng dừa xứ biển Nhà Mát - Cồn Cù. Những vườn đào sai trái dưới trăng thanh, gốc cây phủ ấm cát trắng. Anh ngồi dí lên thiên nhiên thanh lịch đáng yêu đó và kêu tôi làm thơ: “Ðẹp quá! Ðẹp quá!”.

Chính trong chuyến đi này, anh phát hiện nhiều cán bộ văn nghệ và nghệ sĩ các bộ môn thuộc lãnh vực anh phụ trách. Sau đó, anh đề xuất Khu uỷ và Ban Tuyên huấn Khu rút Ba Chân lên lập đoàn văn công Khmer. Rút Sáu Quả lên phụ trách tổ chức, rút Liên Tâm dự trại sáng tác kịch bản…

Năm năm sau, anh lại cùng tôi rời cơ quan đi thực tế hoàn toàn khác trước. Tôi và anh thay phiên nhau chèo chiếc xuồng cũ, cứ phải trám đất sét, nhét vải ở kẽ ván be. Cây chèo chắp khúc giữa thù nụ. Chai nước lăn lóc theo nhịp chèo, chực chờ sút nút ọc ra. Cứ như vậy, khăn rằn quấn cổ với nón tai bèo đội đầu, anh Út và tôi nhập vào đơn vị Lộc Ninh (Trung đoàn X - Chủ lực Quân khu Tây Nam Bộ) và anh Út trở thành người lính trong quân ngũ, liên lạc với cuộc sống ngoan cường, không tì vết mang theo từ địa phương. Trong số bạn trẻ tiếp cận anh lần đó, đồng nghiệp Thanh Thuỷ là một trong những người quý mến anh, còn cất giữ tác phẩm anh đến bây giờ!

Gần một năm thâm nhập bộ đội, chiếc xuồng bể mũi của anh em tôi không còn thấy thợ nào cứu nổi. Bộ đội quyết định cho chúng tôi một chiếc xuồng mới để về cơ quan. Hoạ sĩ Ðình Chiến cùng về chung một xuồng, người trẻ tuổi nhất kêu anh Út Triều bằng chú - trưởng thành từ cơ quan văn nghệ khu ở phòng hoạ. Khi về gần đến ngọn Kinh Hai (xã Thới Bình) anh Út giành chèo. Ðến ngã tư anh quẹo ra vàm kinh, Chiến nói:

- Chú Út đi lạc đường rồi, quay lại, quay lại!

Anh Út pha trò với Chiến và cứ chèo về phía vàm kinh. Anh nói ngoài vàm có nhà dân làm rẫy khóm. Thằng Bá và mầy (Chiến) thích ăn khóm bẻ tại rẫy. Lại có bờ trúc, nói đúng là cả vườn trúc, rừng trúc xanh mượt dịu dàng cho thằng Bá làm thơ, còn mầy vẽ tranh. Chú bảo đảm hai bạn không hề thất vọng…

Chúng tôi đều biết anh Út muốn ra vàm Kinh Hai để ghé thăm chị Hai Tú (người địa phương còn gọi là chị Tư Vọng) một người đàn bà goá chồng với một đàn con nhỏ lao đao.

- Chú Út ơi, có gì chú nói thiệt đi. Văn thơ đâu ở đó mà chú “mô tả” dữ vậy. Về cơ quan đi chú ơi, ghé đó cháu “kẹt” lắm! Vấn đề đạo đức cách mạng đó hen chú Út…

Chiến là đảng viên, ý kiến cháu trai quan trọng. Anh Út nhờ tôi tháo gỡ lối bí cho ảnh:

- Bá, mầy thấy sao, Bá? Mình bỏ cảnh sắc đó uổng quá!

Tôi nhìn Chiến hội ý bằng mắt rồi nói:

- Ðược thôi. Ta ra vàm Kinh Hai ngắm trúc, ăn khóm, rồi có gì mình viết, vẽ cái nấy…

Khi chúng tôi ghé xuồng, lên bờ, bàn chân in lên đất phèn trắng mốc. Một bà mẹ trẻ, vóc nhỏ nhắn, nghèo khó trong căn chòi bé xíu, sậy lá tơi tả, chạy ra đón chúng tôi. Anh Út giới thiệu nhà thơ, hoạ sĩ đàn em cháu của anh cho chị biết. Và quay lại hai bạn đồng hành:

- Ðây là cô Tư chủ rẫy, rất quý mến tài năng các nghệ sĩ…

Ðó rồi anh tỏ ra oai quyền với bà chủ rẫy (có lẽ làm tôi và Chiến vui lòng), anh ra lệnh cho chị nào bẻ khóm, nào làm gà, nào ra tiệm mua trà rời và bánh ngọt, đồng thời luộc khoai mì… tất nhiên là người đàn bà vâng lời anh. Chị chạy lăng xăng quanh nhà, kêu gọi con cháu í ới. Anh Út khều khều tôi:

- Ðó, đó, mầy với thằng Chiến thấy chưa? Ra đây có không khí lắm mà! Chiến, có đúng như chú Út mầy nói không Chiến?

Tất nhiên là hoạ sĩ Chiến cũng phải ừ - à với chú Út cho vui vẻ nhau. Lần ghé vội vã này, anh Út hỏi hôn người đàn bà goá, không biết chữ. Khi chúng tôi bàn chị dốt sẽ trở ngại cho sự nghiệp của anh, anh bảo anh sẽ dạy chị học. Sau đó, bà chủ rẫy ở vàm Kinh Hai trở thành chị Út Triều. Hai anh chị và hai đàn cháu ghép lại, thành một gánh nặng chất lên đôi vai gầy nhom của người nghệ sĩ. Chất yêu đời, tính vui nhộn hài hước duyên dáng và năng lực trí tuệ phi thường của anh tàn lụi dần trong quên lãng, bởi chìm sâu trong bi kịch gia đình. Sau giải phóng, anh đến Cần Thơ tham gia vào Ban lãnh đạo Hội Văn nghệ tỉnh mấy năm. Khi tuổi già sức yếu, cô đơn, anh về tỉnh nhà và qua đời trong cảnh nghèo đói. Tác phẩm anh để lại (có văn, thơ, kịch) không nhiều và không ngang tầm với vốn sống và tài năng của anh, nhưng với chúng ta rất đáng quý.

***

Chúng ta, những người cùng thời với Nguyễn Phong Triều đều biết rõ anh là người tài hoa độc đáo. Anh có “khác” hơn mọi người ở chỗ sống trọn vẹn cho niềm vui, giàu chất hiệp sĩ, hời hợt phóng khoáng và cũng vì thế, anh chuốc lấy nhiều thách thức khó khăn. Nhưng con người sáng rỡ lòng trung thành cách mạng, trọn đời, trọn nghĩa, trọn tình với sự nghiệp chiến đấu giải phóng đất nước. Ở lĩnh vực văn nghệ, anh Nguyễn Phong Triều là người có công phát hiện, đánh giá, cổ vũ và tổ chức một phong trào, một cơ quan cấp khu, làm chỗ dựa thật sự cho văn nghệ nhiều tỉnh. Anh đã góp phần tạo tác thúc đẩy nhiều tác phẩm và tác giả ra đời, kịp thời cống hiến cho cuộc kháng chiến lâu dài và hùng dũng. Sự có mặt xuyên suốt của anh ở ngành Văn nghệ Bạc Liêu - Cà Mau và Khu Tây Nam Bộ là hữu ích, là niềm vui - cũng là niềm tự hào của chúng ta.

Nguyễn Phong Triều là người con của Tân Hưng Tây, Phú Mỹ anh hùng. Anh nhận lấy ảnh hưởng cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa một cách sâu xa. Anh sớm tham dự vào cao trào Cách mạng Tháng Tám 1945 và tự nguyện làm người lính vệ quốc ở mặt trận văn hoá. Anh là một cán bộ năng nổ, thông minh nhạy bén. Ngoài văn nghệ anh có tài “Báo cáo thời sự quốc tế”; phục vụ cho Khu uỷ chỉ đạo. Nhiều cơ quan cấp khu mời anh diễn thuyết về tình hình thế giới và làm heo chiêu đãi để thưởng công anh. Khi theo học trường chính trị cao cấp ở Trung ương Cục, anh nắm bắt bài vở rất sâu và làm thu hoạch xuất sắc.

Dù tác phẩm chưa đủ nói về anh, nhưng những “giai thoại” vui buồn về anh thì bạn sẽ không sao quên được. Chúng ta sẽ có dịp nói thêm nhiều chuyện thú vị về anh. Giờ xin dừng bút. Và nhân danh người đồng nghiệp bước sau anh, kính chúc hương hồn anh an lạc giữa niềm vui siêu thoát - như tính anh vốn có ở cõi đời./.

Nguyễn Bá

Liên kết hữu ích

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.