Thứ sáu, 26-12-25 03:29:23
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

BẠC LIÊU 2010 - 2014: Một hành trình nhân văn

Báo Cà Mau

LTS: Bạc Liêu có một giai đoạn phát triển nhanh, như thay áo mới, thiết lập nền tảng cho những bước nhảy đột phá trong hiện tại và tương lai, được rất nhiều người thừa nhận. Đó là giai đoạn 2010 - 2014. Nhìn sâu vào cuộc vận động phát triển này, tôi cảm nhận đó là một hành trình thấm đẫm nhân văn, đầy khát vọng phát triển.

Tôi đã từng nghe một vài du khách đến tham quan Bạc Liêu, hay một nhà báo hoặc một người hoạt động kinh tế nói đại thể về cuộc hành trình này: Bạc Liêu thay đổi từng ngày, mỗi lần về là thấy sự đổi khác, phát triển thêm lên; Bạc Liêu nổi lên giữa Đồng bằng sông Cửu Long như một vùng đất đầy năng động, sáng tạo…

Trung tâm Triển lãm văn hóa, văn học - nghệ thuật Bạc Liêu đang trong quá trình xây dựng. Ảnh: C.T

Xin mời bạn thả tầm mắt nhìn thành phố Bạc Liêu với những công trình chào mừng “Festival Đờn ca tài tử (ĐCTT) quốc gia lần I - Bạc Liêu 2014”, đó là Quảng trường Hùng Vương, tượng đài Mậu Thân, biểu tượng cây đờn kìm, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ… Và chúng ta nhìn xa hơn sẽ bắt gặp những đường phố rộng lớn, đầy hoa thơm, cây xanh, những dự án động lực như: Điện gió, tòa Bạc Liêu Tower, Khu lưu niệm Nghệ thuật ĐCTT Nam bộ và nghệ nhân Cao Văn Lầu, Đền thờ Bác Hồ và những dự án kinh tế - xã hội lớn khác. Đó là những kết cấu của một nền tảng vững chắc cho sự đứng dậy phát triển của tỉnh Bạc Liêu trong hiện tại và tương lai.

Sự đổi thay nêu trên là sự đổi thay trong không gian, về mặt hình thể, Bạc Liêu còn một sự đổi thay sâu sắc hơn đó là sự đổi thay bên trong, là vấn đề tâm hồn Bạc Liêu. Tôi đã từng gặp rất nhiều nhà đầu tư khác về Bạc Liêu làm ăn do mối giao tình với Bạc Liêu, do họ cảm nhận Bạc Liêu là vùng đất nồng ấm tình đời. Những năm qua nhiều chủ trương của Bạc Liêu đề cao yếu tố văn hóa đạo đức trong lãnh đạo điều hành, nổi trội nhất là chủ trương “Bạc Liêu đi lên từ văn hóa” đã được dư luận báo chí đánh giá rằng Bạc Liêu vận động phát triển bằng sự thu phục nhân tâm. Còn nhà báo Vũ Thống Nhất thì nói trên báo Sài Gòn Giải Phóng rằng: “Sự vận động đi lên của Bạc Liêu là một hành trình thấm đẫm nhân văn”. Đó chính là vấn đề bên trong, là chiều sâu của vùng đất. Và đó cũng là yếu tố tạo ra sự phát triển bền vững của Bạc Liêu.

Thế cho nên người viết bài này xin trình bày cuộc hành trình này của Bạc Liêu cả về mặt hình thể lẫn chiều sâu tâm hồn, để qua đó phản ánh được tính nhân văn, hàm lượng văn hóa của hành trình Bạc Liêu vận động phát triển.

Xin được bắt đầu từ năm 2010, đó là cuối nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần XIII. Trong việc tìm kiếm các giải pháp đẩy mạnh phát triển tỉnh Bạc Liêu đã bắt đầu xuất hiện một tư duy mới. Chúng ta hãy nghe đồng chí Võ Văn Dũng, Bí thư Tỉnh ủy nói về tình hình năm 2010 như sau: “Cuối nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần XIII nhìn lại thấy kinh tế - xã hội của tỉnh trong nhiệm kỳ đạt được một số thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 11,51%, thu nhập bình quân đầu người 1.047USD/năm… Thế nhưng với tốc độ tăng trưởng này Bạc Liêu sẽ đi lên rất chậm, vẫn là một tỉnh nghèo của ĐBSCL. Bởi vì quy mô của nền kinh tế rất nhỏ lẻ. Lúc đó chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh là 59/61 tỉnh, thành của cả nước”… Còn báo cáo chính trị của Đại hội XIII thì đánh giá rằng: “Các yếu tố đảm bảo chất lượng, tính bền vững trong phát triển kinh tế còn hạn chế; sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế chưa đạt yêu cầu Nghị quyết đề ra. Các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là thế mạnh của tỉnh chưa được quan tâm đầu tư nâng cao giá trị; tính cạnh tranh kém. Chất lượng thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển công nghiệp và chương trình xây dựng các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế. Điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, tiềm năng phát triển du lịch, thương mại… chưa được quan tâm đầu tư. Lợi thế về kinh tế biển chưa được đầu tư khai thác hiệu quả. Các ngành dịch vụ về tài chính, ngân hàng, viễn thông… tuy có tốc độ tăng trưởng khá nhưng tỷ trọng nhỏ. Môi trường kinh doanh và đầu tư chưa thông thoáng, chưa đủ sức thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhất là với các nhà đầu tư lớn. Ngoài ra, báo cáo này còn nhận xét: Các yếu tố đảm bảo chất lượng, tính bền vững trong sản xuất còn hạn chế; hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và văn hóa - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; công tác quy hoạch, thực hiện quy hoạch quản lý đô thị, xây dựng cơ bản còn nhiều yếu kém, làm ảnh hưởng chất lượng tăng trưởng. Hệ thống chính trị chưa đủ mạnh; sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Còn nhớ, tại TP. Bạc Liêu lúc đó nổi lên một vấn đề mới, tâm huyết của Thành ủy là chỉnh trang đường phố, trồng cây xanh, tiến lên thành phố văn minh, lịch sự, xứng tầm với trung tâm tỉnh lỵ nhưng làm rất ì ạch, nhiều tuyến đường gồ ghề vì thiếu vốn, vì không giải tỏa được, như đường Trần Huỳnh. Về ngoại lực và những vấn đề khách quan thì lúc đó tình trạng suy thoái kinh tế, năm 2010 Quốc hội quyết định cắt giảm đầu tư công, hơn nữa Bạc Liêu là vùng trũng… lại không nằm trong “bản đồ” quy hoạch đầu tư của Trung ương; dịch bệnh, thiên tai tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng kinh tế của Bạc Liêu.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh dự lễ động thổ khởi công Nhà máy bao bì dầu khí Bạc Liêu (ngày 28/6/2010). Ảnh: M.Đ

Lãnh đạo tỉnh lúc bấy giờ nhận định rằng muốn tạo ra sự bứt phá, nâng cao vị thế mới cho Bạc Liêu cần phải hóa giải các vấn đề nêu trên, và họ cho rằng cần phải có những dự án động lực, chính những dự án động lực sẽ làm thay đổi quy mô nền kinh tế và góp phần hóa giải nhiều lĩnh vực yếu kém. Mà muốn có dự án động lực thì cần có nguồn lực đáp ứng yêu cầu, trong khi ngân sách tỉnh quá thấp kém. Việc huy động ngoại lực phát huy nội lực đặt ra như một yêu cầu sống còn.

Chính từ yêu cầu trên, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đề ra giải pháp, bước đi đầy sáng tạo. Thứ nhất là Tỉnh ủy, UBND tỉnh nhất trí phải báo cáo đầy đủ cho Chính phủ và các bộ, ngành biết Bạc Liêu là tỉnh thiết tha phát triển nhưng đã qua gặp nhiều khó khăn vì thiếu vốn, vì được đầu tư thấp. Bạc Liêu đi “gõ cửa” với tấm lòng chân thành, khát khao phát triển. Chính từ thái độ chân thành ấy mà Chính phủ đã có sự nhất trí, đồng thuận cao. Những gì Bạc Liêu đề xuất đều được giải quyết. Kể từ đó, mối quan hệ với Trung ương đã có sự gắn kết. Tỉnh ủy Bạc Liêu nâng nó lên thành cách lãnh đạo điều hành của Bạc Liêu. Qua đó, Bạc Liêu nhận được tình cảm nồng ấm từ phía Trung ương và nhiều người từ các nơi khác.

Nói thì nói vậy, có tình rồi thì cũng phải có lý. Những người lãnh đạo thời đó đã đi học nhiều nơi và cuối cùng đã rút ra một điều rằng: Quy hoạch của tỉnh phải phù hợp với quy hoạch của Trung ương. Từ đó, rà soát lại tiềm năng, lợi thế của tỉnh để quy hoạch gắn kết với quy hoạch của vùng, của Trung ương. Đó là cái lý có tính thuyết phục cao để Trung ương xem xét đầu tư hoặc bổ sung quy hoạch.

Giải pháp thứ hai là năm 2010, Chủ tịch UBND tỉnh ra Chỉ thị số 09 về kêu gọi đầu tư và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh. Chỉ thị này nêu ra những điều mới mẻ, hấp dẫn các nhà đầu tư là trải thảm mời doanh nghiệp, doanh nhân đến Bạc Liêu đầu tư bằng cách đơn giản thủ tục như giao đất trước để thi công rồi làm thủ tục sau, áp dụng các chính sách ưu ái nhà đầu tư…

Nhiệm kỳ Đai hội XIII kết thúc, Đại hội XIV bắt đầu bằng việc kế thừa, phát huy cách làm của Đại hội XIII một cách hiệu quả và sâu sắc nhất. Nếu ở nhiệm kỳ Đại hội XIII đơn giản hóa các thủ tục cho nhà đầu tư thì Đại hội XIV xuất hiện những quan điểm mới: Xem nhà đầu tư là ân nhân của Bạc Liêu, việc gì khó dành cho các cơ quan Nhà nước, việc gì dễ dành cho doanh nghiệp. Nhiều nhà đầu tư nói rằng cuộc đời doanh nhân của họ đi Nam về Bắc làm ăn, chưa có nơi nào xem trọng doanh nhân, chí tình, chí nghĩa như Bạc Liêu.

Chưa dừng lại ở đó, Tỉnh ủy chủ trương thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với các tỉnh bằng thái độ khiêm tốn: “Nguyện làm người em út dễ thương”. Không có một sự kiện nào lớn ở các tỉnh mà không có mặt lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu. Bạc Liêu đến học hỏi để liên kết làm ăn, cũng như phát triển. Chính vì thế, khi Bạc Liêu đề xuất đăng cai tổ chức Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần I thì lập tức 21 tỉnh, thành Nam bộ đồng lòng ủng hộ. Đó là kết quả kỳ diệu của thái độ chân thành, khiêm tốn, cầu thị.

Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đại hội XIV và phiên họp HĐND tỉnh cuối năm 2013 đã rút ra bài học về cách làm nêu trên như sau: “Nguyên nhân thúc đẩy Bạc Liêu phát triển ngoài sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, của nhân dân thì tư duy lãnh đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng, chính quyền có sự đổi mới, phù hợp. Những tư duy, cách làm mới đó không phải ngẫu nhiên, nhất thời, mà nó trở thành ổn định, thành cách chỉ đạo, điều hành có tính thống nhất cao”.

Một trong những nội dung mới đó là đề cao yếu tố văn hóa, đạo đức trong mọi hoạt động chỉ đạo, điều hành, ứng xử của cán bộ, công chức. Cụ thể là hiếu khách, hiệp nghĩa với bên ngoài (Trung ương, các tỉnh) và đoàn kết, chia sẻ, trách nhiệm, khoan dung với bên trong; cầu thị với đối tác, các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, hài hòa và nhiệt tình với các tỉnh; trải thảm, đơn giản hóa thủ tục, cái gì khó để cơ quan Nhà nước, cái gì dễ để dành doanh nghiệp. Chủ động gắn kết với Trung ương, để qua đó Trung ương chia sẻ khó khăn; luôn ứng xử trân trọng với đối tác, các tổ chức, cá nhân đã giúp Bạc Liêu cũng như đối với doanh nghiệp; quyết tâm chính trị cao; quyết liệt, bản lĩnh, làm đến cùng, có hoài bão, vì cái chung, vì lợi ích của nhân dân.

Những vấn đề trên kết lại thành bản sắc, cách đi riêng và đó là chìa khóa thành công của Bạc Liêu từ đầu nhiệm kỳ đến nay.

Tư duy chỉ đạo, điều hành mới của lãnh đạo tỉnh đã làm cho tôi cảm nhận những điều thú vị. Nhà báo Vũ Thống Nhất thì gọi đó là một cuộc hành trình thấm đẫm nhân văn, còn chúng tôi thấy tư duy ấy là quy định những chuẩn mực trong ứng xử mà nếu tổng hợp lại thành phẩm chất của một con người thì sẽ có đầy đủ: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Đó chính là cội rễ của văn hóa. Mà văn hóa thì sức mạnh khôn lường. Chính vì thế, người ta không còn cảm thấy ngạc nhiên khi mà trong vòng 4 năm, kể từ năm 2010 đến nay, Bạc Liêu đã thu hút được 98 dự án, với tổng vốn đầu tư gần 15.250 tỷ đồng và hơn 339 triệu USD. Chỉ số năng lực cạnh tranh của Bạc Liêu vọt lên năm sau cao hơn năm trước một cách ngoạn mục, từ đứng thứ hạng 59 năm 2010 đến nay vọt lên thứ hạng 14. Từ đó, Bạc Liêu có nguồn lực giải quyết mục tiêu xây dựng các công trình, dự án động lực để hóa giải các khó khăn, đặt nền móng đi lên cho tỉnh.

Công trình tượng đài Mậu Thân 1968. Ảnh: Đỗ Hiếu Liêm

Xin mời các bạn về thăm các dự án đong lực và nghe những chủ dự án nói cái lý do mà họ về Bạc Liêu đầu tư. Dự án đầu tiên chúng tôi muốn giới thiệu là Nhà máy Điện gió Bạc Liêu. Đây là dự án điện gió đầu tiên của ĐBSCL nằm trên thềm lục địa, có tổng vốn đầu tư 5.217 tỷ đồng. Tổng công xuất 99MW với 62 trụ tua-bin gió. Tổng sản lượng điện đưa lên lưới điện quốc gia hàng năm ước khoảng 320 triệu kWh. Đây là dự án động lực lớn, mở ra nhiều cơ hội của tỉnh trong việc tăng nguồn thu ngân sách, tăng GDP, tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP, kích thích du lịch phát triển.

Ông Tô Hoài Dân, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng Giám đốc Nhà máy Điện gió Bạc Liêu, nói: “Tôi chọn đầu tư ở Bạc Liêu vì Bạc Liêu là vùng đất nồng ấm tình cảm. Khi vào thi công vận hành nhà máy tôi mới thấy mình chọn lựa đúng. Nhà máy chúng tôi đã nhận được sự quan tâm rất đặc biệt của lãnh đạo tỉnh từ giải quyết thủ tục nhanh chóng, đến giải phóng mặt bằng và nhiều vấn đề khác”.

Tại cửa biển Gành Hào lộng gió. Ở nơi biển trời rộng lớn này đang chứa đựng 3 dự án lớn. Nó không chỉ là dự án động lực của tỉnh mà còn là dự án động lực của quốc gia. Có được nó từ cách đi mang bản sắc của Bạc Liêu, từ tư duy chiều sâu nhận ra lợi thế tiềm năng của vùng biển trời rộng lớn này. Dự án thứ nhất là dự án Cảng biển Gành Hào và hướng phát triển thành cảng biển nước sâu (cho tàu trọng tải từ 50.000 - 100.000 tấn). Dự án thứ hai là khu kinh tế Gành Hào mà Chính phủ đã đưa vào quy hoạch quốc gia, khi có nhà đầu tư. Thứ ba là dự án nhiệt điện Cái Cùng, cũng được Chính phủ đồng ý bổ sung vào hệ thống nhiệt điện quốc gia, với tổng công suất 1.200MW, tổng mức đầu tư 1,2 tỷ USD. Hiện tại ba dự án này được Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt khảo sát, thiết kế, làm quy hoạch và nó đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong nước và quốc tế đến. Cũng cần nói thêm, tại Gành Hào đã hoàn thành và đưa vào sử dụng cảng cá giai đoạn I, sản lượng qua cảng 5.400 tấn/năm, số lượng tàu qua cảng là 170 chiếc/ngày. Cảng cá này đang được mở rộng lớn quy mô 6,75ha.

Tại khu công nghiệp Trà Kha đã có rất nhiều nhà đầu tư về đây đầu tư khi Bạc Liêu thay đổi tư duy trong lãnh đạo, điều hành. Đó là Nhà máy Bia Sài Gòn - Bạc Liêu, chỉ sau 3 năm hoạt động đã nâng công suất từ 32 triệu lít/năm lên 50 triệu lít/năm, đóng góp ngân sách mỗi năm 200 tỷ đồng, dự kiến sẽ tăng lên 300 tỷ đồng vào năm 2014; rồi dự án bao bì dầu khí cũng đang làm ăn có hiệu quả.

Chúng ta về Hồng Dân để thăm nhà máy chế biến gạo xuất khẩu. Đây là nhà máy có công suất 200.000 tấn/năm. Nhà máy này mở hướng đi mới cho nông nghiệp Bạc Liêu.

Sẽ không hoàn chỉnh nếu ta nói việc thu hút nguồn lực để thiết lập nền tảng cho công cuộc phát triển đột phá của Bạc Liêu hôm nay chỉ dựa vào sự đầu tư của Trung ương, mời gọi đầu tư bằng thái độ văn hóa. Thật ra, đó là một công cuộc được tiến hành đồng bộ bằng các giải pháp sáng tạo làm cho Bạc Liêu trở nên năng động, hấp dẫn. Vấn đề mà chúng tôi muốn nói đến là việc huy động trí tuệ tập thể, làm cho hành trình của Bạc Liêu giàu hàm lượng trí tuệ. Người ta tính được rằng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIV đến cuối năm 2013, Tỉnh ủy Bạc Liêu đã xây dựng, ban hành 5 nghị quyết chuyên đề, 16 chương trình, 32 chỉ thị, 9 kết luận và 30 kế hoạch…, chưa kể UBND tỉnh còn có nhiều văn bản khác. Khi tiếp cận các văn bản này tôi gặp rất nhiều bất ngờ. Nó là văn bản chính trị nhưng lại không khô khan mà lung linh cuộc sống và chứa đựng nhiều tư duy mới mẻ, chứng tỏ trí tuệ tập thể của BCH Tỉnh ủy đã được huy động một cách triệt để nhất.

Văn bản chính trị đầu tiên chúng tôi muốn giới thiệu là Nghị quyết 01 của BTV Tỉnh ủy. Mục tiêu của nghị quyết này là xây dựng và phát triển TP. Bạc Liêu thành đô thị loại II, thành phố xanh - sạch - đẹp, văn minh để qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống người dân thành phố và trở thành động lực thúc đẩy nhanh sự phát triển của tỉnh cũng như tạo ra một diện mạo mới cho Bạc Liêu. Một điều lạ nữa là không chỉ có xây dựng bằng bê-tông cốt thép mà nghị quyết này đặt ra yêu cầu huy động văn hóa, đó là tính hiếu khách, văn minh, lịch thiệp để nâng cao tâm hồn, tính cách con người thành phố. Thật là sâu sắc và trí tuệ khi nghị quyết này cũng đặt ra yêu cầu huy động lịch sử, văn hóa, tính cách của Bạc Liêu để tạo ra cho TP. Bạc Liêu một bản sắc riêng, một dấu ấn riêng.

Từ nền tảng xây dựng đô thị xanh - sạch - đẹp của TP. Bạc Liêu từ năm 2010 trở về trước, từ sự đáp ứng được khát vọng phát triển của nhân dân thành phố nói riêng và nhân dân trong tỉnh nói chung của Nghị quyết 01, chỉ qua chưa đầy 2 năm thực hiện, nghị quyết đã làm cho TP. Bạc Liêu như thay áo mới, khiến người nơi khác đến phải bất ngờ, từ đường phố rộng lớn, rợp bóng cây xanh, đến các công trình mang dấu ấn Bạc Liêu như: Biểu tượng cây đờn kìm, tượng đài Mậu Thân, nhà văn hóa đa năng… Mỗi lần xuân về tết đến, nhìn TP. Bạc Liêu lộng lẫy đèn hoa đã khiến người dân thành phố xúc động, khiến du khách ở xa trầm trồ. Mục tiêu phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân là tỉnh có khu hành chính đẹp… Chúng ta có thể nói rằng giờ đây người dân TP. Bạc Liêu có thể mãn nguyện được điều đó, qua câu nói của nhiều người ngoài tỉnh. TP. Bạc Liêu đã dựa vào điều kiện tự nhiên, lịch sử và tính cách người Bạc Liêu để phát triển thành phố mang dấu ấn riêng. TP. Bạc Liêu làm được vai trò trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội và tạo động lực cho tỉnh phát triển, trong đó có du lịch.

Khu du lịch sinh thái Hồ Nam. Ảnh: M.Đ

Văn bản chính trị thứ hai mà chúng toi muốn giới thiệu đó là Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy về đẩy mạnh phát triển du lịch. Chúng tôi nhìn nhận đây là một nghị quyết chứa chan khát vọng phát triển và chứa đựng sự thông tuệ của những người làm nghị quyết. Bạc Liêu không có những lợi thế về tự nhiên cho làm du lịch như Cà Mau hay Lạng Sơn có biểu tượng thiêng liêng của hai đầu đất nước, có núi non điệp trùng và chiều sâu văn hóa mấy ngàn năm như tỉnh kết nghĩa với Bạc Liêu là Ninh Bình… Vậy mà Nghị quyết 02 lại nâng kinh tế du lịch lên thành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Nghị quyết cũng nêu rõ chỗ dựa để phát triển du lịch Bạc Liêu là huy động văn hóa lịch sử của tỉnh để làm động lực phát triển.

Thực tiễn của hai năm tổ chức thực hiện Nghị quyết 02 cho thấy, việc nhận diện lợi thế Bạc Liêu của nghị quyết là hoàn toàn đúng đắn. Kinh tế du lịch của Bạc Liêu phát triển không ngừng, năm sau cao hơn năm trước kể cả doanh thu và du khách. Sự đúng đắn còn thể hiện qua việc thu hút đầu tư. Có những nhà đầu tư ở xa đã bán cơ nghiệp để về Bạc Liêu. Tiêu biểu trong các dự án đầu tư cho du lịch là: Khu du lịch sinh thái Hồ Nam, Khu du lịch Nhà Mát, cụm nhà Công tử Bạc Liêu, Vườn chim Bạc Liêu...

Vấn đề thứ hai mà tôi cảm nhận về Nghị quyết 02 đó là một chủ trương có hậu. Nghị quyết đã bóc tách trong văn hóa lịch sử ra những gì tiêu biểu của Bạc Liêu rồi gắn kết với chính sách ưu đãi đầu tư và thu hút ngoại lực, phát triển nội lực nêu trên để kêu gọi đầu tư vào những công trình như: Tái tạo trùng tu cụm nhà Công tử Bạc Liêu, xây dựng Bảo tàng tỉnh với quy mô lớn, xây dựng Đền thờ Bác Hồ, Quảng trường Hùng Vương với hệ thống cụm tượng đẹp và giàu cảm xúc, xây dựng Trung tâm triển lãm văn hóa - nghệ thuật và nhà hát Cao Văn Lầu, xây dựng biển nhân tạo, giả sơn của Quán âm Phật đài, Khu lưu niệm nghệ thuật ĐCTT Nam bộ và nghệ nhân Cao Văn Lầu.

Sự thông tuệ ấy được chứng minh rằng: xây dựng, tôn tạo lại những gì thuộc về đặc điểm, bản sắc của Bạc Liêu chính là giữ gìn hồn cốt của đất địa, mà hồn cốt chính là văn hóa. Như vậy, chủ trương này đạt cả hai mục tiêu là phát triển văn hóa và tạo ra lực hấp dẫn để phát triển du lịch.

Hàm lượng trí tuệ trong từng bước đi, cách làm, chúng ta còn thấy ở các chủ trương đẩy mạnh phát triển trên nhiều lĩnh vực khác. Năm 2012, Tỉnh ủy ra Chỉ thị về phát triển kinh tế biển và vùng Nam Quốc lộ 1A. Trong nghị quyết này, ngoài đẩy mạnh xây dựng các dự án động lực như: điện gió, cảng nước sâu, khu kinh tế động lực Gành Hào, nhà máy nhiệt điện Cái Cùng thì nghị quyết đã tính toán, sắp xếp lại toàn vùng một cách chi tiết và khoa học để vùng này trở thành vùng kinh tế động lực của tỉnh và đưa Bạc Liêu trở thành một tỉnh mạnh về kinh tế biển. Từ mục tiêu này, qua hơn một năm thực hiện nghị quyết, chúng ta bắt đầu thấy sự đổi thay có tính nền tảng. Đó là kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi được sửa chữa và xây dựng mới như: Đường Giá Rai - Gành Hào, đê biên phòng, đường liên xã…

Nghề khai thác thủy hải sản được quy hoạch lại, kết hợp với nhiều chính sách thúc đẩy khác đã trang bị mới thành những đội tàu đánh bắt xa bờ, hiện đại, kết hợp với giữ gìn an ninh trật tự trên biển. Nghề muối cũng được quan tâm, đầu tư lại để phát triển theo hướng hạ giá thành, tăng sản lượng kết hợp với du lịch. Nghề nuôi tôm được quan tâm đặc biệt với việc quy hoạch vùng nuôi tôm siêu sạch. Đã xuất hiện mô hình nuôi tôm trong nhà kính, do Công ty Hải Nguyên đạt sản lượng rất cao… Vùng biển này cũng được đẩy mạnh phát triển du lịch biển, rừng, kết hợp với việc trồng rừng bảo vệ môi trường sinh thái… Mục tiêu của vùng này là phải đạt giá trị sản xuất chiếm 54,22% toàn tỉnh vào năm 2015.

Còn vùng Bắc quốc lộ 1A, ngay từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần XIV cũng đã được quy hoạch, đầu tư phát triển đồng bộ các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng để nó trở thành vùng kinh tế năng động, hiệu quả cao; tạo ra bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh phát triển du lịch; phát triển mạnh nông nghiệp - nông thôn; xây dựng các vùng kinh tế và dân cư đô thị theo hướng hiện đại; thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, xây dựng huyện Giá Rai thành thị xã.

Sau 3 năm, tính từ đầu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần XIV, toàn vùng Bắc Quốc lộ 1A đã chuyển động một cách tích cực. Từ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến phát triển nông nghiệp toàn diện gắn với xây dựng nông thôn mới mà làng quê đổi thay đi vào chiều sâu. Đường sá, cầu cống nông thôn bây giờ huyện nối xã, xã nối ấp… Nhiều làng xóm trở nên giàu có với biệt hiệu ấp Nhà Lầu, làng Tỷ Phú. Nhiều mô hình thâm canh hiệu quả cao như: Nuôi cá sấu thịt, cá sấu bố mẹ, cá bống tượng, tôm càng xanh; toàn vùng chuyển lên sản xuất lớn với “Cánh đồng mẫu lớn”, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo mô hình VietGAP, với nhà máy chế biến gạo xuất khẩu 200 ngàn tấn/năm. Vùng này cũng đã sản xuất giống lúa với thương hiệu nổi tiếng như Một bụi đỏ, Tài nguyên, lúa Sỏi…

Chuyện xây dựng nông thôn mới ở huyện điểm của Trung ương tại Phước Long đã làm nông dân phấn chấn, với lộ làng, trạm bơm, nước sạch, nhà văn hóa, trạm xá, trường học, khoác cho nông thôn bộ áo mới hiện đại hơn, đổi mới sâu hơn. Gần đây xã Vĩnh Thanh đã đạt được 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

Các cụm công nghiệp với các dự án động lực cũng được tiến hành quy hoạch, xây dựng. Hơn 10 nhà máy chế biến thủy sản ở ven Quốc lộ 1A đã được trang bị công nghệ hiện đại đạt năng suất cao.

Trang trí trực quan tuyên truyền phục vụ Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần I - Bạc Liêu 2014. Ảnh: Minh Đạt

Làm rõ những điều trên, tôi muốn chứng minh một điều rằng cuộc hành trình của tỉnh Bạc Liêu từ năm 2010 đến nay là một hành trình giàu hàm lượng nhân văn và trí tuệ. Khi nghiên cứu, nhìn sâu vào nó, chúng tôi còn phát hiện một vấn đề thú vị, có tính nền tảng, hướng đi cho tương lai của Bạc Liêu. Từ cuối năm 2012 đã xuất hiện một quan điểm mới, định hướng phát triển lâu dài của Bạc Liêu, đó là “Bạc Liêu đi lên từ văn hóa”. Tại cuộc họp mặt mừng Xuân 2013, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy - Võ Văn Dũng nêu quan điểm này, lập tức đã được giới báo chí và văn nghệ sĩ ủng hộ nhiệt liệt, sau đó nó lan rộng ra.

Thật ra, theo chúng tôi đây là một quan điểm mang tính chất tổng kết thực tiễn mà thôi. Như chúng tôi đã nói trên, ngay từ những năm đầu thực hiện Nghị quyết XIV, Bạc Liêu đã có chủ trương nâng cao yếu tố văn hóa đạo đức trong lãnh đạo điều hành. Và nó diễn ra sinh động, khắp mọi nơi trong thực tiễn. Thậm chí đến giải tỏa bồi hoàn cũng mang yếu tố nhân văn, tức là không làm thiệt người bị giải tỏa, ai chấp hành tốt được khen thưởng. Tết về, những người chấp hành tốt được Tỉnh ủy, UBND tỉnh tặng quà, làm họ ngạc nhiên.

Đạo đức thật ra nó là văn hóa. Chính vì nhận ra sức mạnh của nó nên từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIV, Tỉnh ủy đã đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển văn hóa, văn học - nghệ thuật trên tất cả các lĩnh vực. Trong việc đào tạo nguồn nhân lực, Bạc Liêu đã đẩy mạnh mở rộng hệ thống giáo dục - đào tạo, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao như thành lập, mở rộng Trường đại học Bạc Liêu và các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp. Chẳng những thế, trong việc đào tạo con người, Bạc Liêu còn nêu yêu cầu giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống, như tính phóng khoáng, hào hiệp, khoan dung của con người Bạc Liêu; rồi đến cả những giá trị văn hóa vật thể như chùa chiền, đền miếu đều được quan tâm trùng tu, gìn giữ. Riêng đối với lĩnh vực văn học - nghệ thuật, một bộ phận tinh túy của văn hóa thì được quan tâm đặc biệt. Từ việc giữ gìn, phát triển bản Dạ cổ hoài lang, đờn ca tài tử (ĐCTT) và sân khấu cải lương, đến việc quan tâm đặc biệt đến văn nghệ sĩ có tài. Đó là việc xây dựng Khu lưu niệm nghệ thuật ĐCTT Nam bộ và nghệ nhân Cao Văn Lầu, đến đặt tên Cao Văn Lầu cho một con đường lớn. Tết về, người đứng đầu Đảng và Nhà nước tỉnh đi thăm hỏi, tặng quà văn nghệ sĩ đầu đàn. Quan tâm đầu tư, chỉ đạo đẩy mạnh các bộ môn văn học - nghệ thuật như nhiếp ảnh, sân khấu, phong trào ĐCTT…

Vấn đề xã hội chứa đựng nội dung phát triển văn hóa cũng được quan tâm đặc biệt như “Uống nước nhớ nguồn”, để giáo dục thế hệ trẻ. Đó là xây dựng khang trang Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh, các huyện; xây dựng đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ, tượng đài Mậu Thân. Tỉnh ủy có chủ trương cho cán bộ, đảng viên đỡ đầu gia đình chính sách và hộ nghèo. Đặt chỉ tiêu gia đình chính sách không còn nhà lá, xiêu vẹo; đẩy mạnh quỹ An sinh xã hội để cất nhà tình thương cho hộ nghèo… Còn nhớ, trong năm 2013 diễn ra một sự kiện đặc biệt làm xúc động nhiều người, đó là việc đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh rất đông ra Ninh Bình để tỉnh bạn tổ chức lễ kỷ niệm kết nghĩa Bạc Liêu - Ninh Bình và ký kết hợp tác phát triển. Hơn 50 năm trước Ninh Bình giúp Bạc Liêu trong chiến tranh, thì nay Bạc Liêu ra nhắc lại với thái độ mang ơn thành tâm đã làm cho đồng bào xúc động trước cái chí tình, chí nghĩa của Bạc Liêu. Nó gợi mở đến tình nghĩa Nam - Bắc một nhà mà ai cũng phải suy nghĩ. Đó chính là thái độ, một bước đi để phát triển văn hóa.

Việc đăng cai tổ chức Festival ĐCTT quốc gia lần I - Bạc Liêu 2014 cũng là một động lực để phát triển văn hóa. Chúng tôi nhìn nhận vấn đề này có mấy nội dung như sau: Một là Bạc Liêu muốn Festival quốc gia tại quê hương mình để khẳng định Bạc Liêu là một trong những “cái nôi” lớn của ĐCTT Nam bộ, để qua đó trang bị cho người Bạc Liêu những nội dung cần giữ gìn và phát triển bộ môn nghệ thuật đặc sắc của quê hương giờ trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Hai là, qua Festival, Bạc Liêu sẽ tranh thủ được nhiều nguồn lực để xây dựng những công trình tầm cỡ để đời cho xứ sở mình. Ba là qua Festival, Bạc Liêu sẽ quảng bá được hình ảnh của mình để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và du lịch.

Chính thái độ chân thành với văn hóa, quyết tâm phát triển văn hóa mà Bạc Liêu trở nên nhân văn và trí tuệ, tỉnh Bạc Liêu ngày càng phong phú, đẹp đẽ trong không gian và sâu sắc trong tâm hồn. Chắc chắn rằng, Bạc Liêu sẽ thành công trong hành trình đi lên từ văn hóa, bởi nó đạt được một vấn đề mang tính quy luật: Văn hóa là sức mạnh nội sinh, là động lực trực tiếp quan trọng của sự phát triển. Và thực tiễn 4 năm vận động, phát triển vừa qua đã chứng minh được điều đó.

PHAN TRUNG NGHĨA

Chùa Rạch Cui - biểu tượng của đoàn kết và sum họp

Giữa không gian sông nước hiền hoà của xã Khánh Bình, chùa Rạch Cui hiện lên như một dấu son đặc biệt trong đời sống văn hoá tâm linh của đồng bào Khmer Cà Mau. Không chỉ là ngôi chùa Nam tông mang giá trị kiến trúc truyền thống, Rạch Cui còn là nơi ghi dấu lịch sử cách mạng hào hùng, in đậm tinh thần đoàn kết Kinh - Khmer - Hoa trên vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc.

79 thí sinh tham gia Liên hoan Đờn ca tài tử học đường

Tối 19/12, tại Trung tâm Văn hoá tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức khai mạc Liên hoan Đờn ca tài tử học đường tỉnh Cà Mau năm 2025.

Tập huấn xây dựng mô hình trải nghiệm Nhạc trống lớn của người Khmer

Sáng 19/12, tại Nhà sinh hoạt văn hoá ấp Cây Khô, Xã Hồ Thị Kỷ, Phân viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam phối hợp Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Cà Mau tổ chức tập huấn “Xây dựng mô hình trải nghiệm Nghệ thuật Nhạc trống lớn của người Khmer ở tỉnh Cà Mau”. Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Cà Mau tổ chức tập huấn “Xây dựng mô hình trải nghiệm nghệ thuật Nhạc trống lớn của người Khmer ở tỉnh Cà Mau”. Dự buổi tập huấn có Tiến sĩ Bùi Thị Hoa, Phó Phân viện trưởng phụ trách Phân viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam.

Trưng bày triển lãm “Cà Mau - Nơi khắc ghi dấu ấn lịch sử và bản sắc văn hóa phương Nam”

Sáng 15/12, Bảo tàng tỉnh Cà Mau phối hợp với Đảng uỷ, UBND xã An Trạch và Trường THCS Võ Nguyên Giáp tổ chức khai mạc trưng bày triển lãm chuyên đề “Cà Mau - Nơi khắc ghi dấu ấn lịch sử và bản sắc văn hóa phương Nam”.

Một thời hoa lửa

U Minh Hạ mùa sa mưa. Trong cái nắng mới cố xiên mình qua những đám mây đen nặng oằn chực chờ trút xuống, thoang thoảng mùi bông tràm nở muộn.

Biểu tượng hoa cau trong văn hoá Khmer

Hoa cau, biểu tượng thiêng liêng trong hôn lễ của người Khmer, được xem là thước đo phẩm hạnh, phản ánh giá trị văn hoá độc đáo.

Trao thưởng các tác giả đạt Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V

Chiều 12/12, UBND tỉnh Cà Mau tổ chức Lễ trao Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V. Dự lễ có đồng chí Phạm Văn Thiều, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh và đồng chí Ngô Vũ Thăng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh.

Điểm đến giàu tiềm năng du lịch văn hoá - tín ngưỡng

Toạ lạc tại xã Hưng Hội, chùa Soryaram (chùa Giữa) đã tồn tại gần một thế kỷ và vẫn gìn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp kiến trúc cổ truyền, lộng lẫy. Không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Khmer, chùa còn là không gian văn hoá đặc sắc, hội tụ nhiều giá trị truyền thống, tạo tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hoá - tín ngưỡng.

Tục thờ Môn thần của người Hoa

Trong tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa tại Cà Mau, tục thờ Môn thần là nét văn hoá đặc sắc, gắn liền với quan niệm về sự an cư, bảo hộ và trấn áp tà khí.

Sắc màu văn hoá Khmer qua Lễ Cầu an

Hằng năm, sau Tết Chôl Chnăm Thmây, đồng bào Khmer tại các phum - sóc trên địa bàn tỉnh Cà Mau lại hân hoan tổ chức Lễ Cầu an (Panh Kom San Srok), một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng nhất.