ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 16-6-25 12:51:19
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bâng khuâng nhớ bóng hàng cau

Báo Cà Mau (CMO) Mấy ngày gần đây, tôi đã đọc nhiều bài viết đầy xúc động của bạn bè trên mạng xã hội. Họ, vì lệnh giãn cách mà không thể về quê giỗ cha mẹ, hay ông bà. Dịch Covid thật ghê gớm, nó không chỉ bào mòn thể xác, mà còn làm tổn thương tâm hồn con người một cách âm thầm, dai dẳng.

Trông người lại ngẫm đến ta, chợt nhớ ngày giỗ ngoại cũng sắp tới rồi. Tôi không chắc ngày đó mình có được về thắp cho ngoại nén nhang hay không, dù từ nơi tôi ở về quê ngoại chỉ hơn mười cây số.

Chiều chiều ra đứng bờ ao

Trông về quê ngoại ruột đau chín chiều

Ðường không cách trở bao nhiêu

Cò bay thì được, tôi về thì không… (*)

Ngoại qua đời khi tôi mới vào đầu cấp hai. Hơn 30 năm đã trôi qua, nhưng những ấn tượng về tình thương của ông, bà ngoại dành cho tôi vẫn còn in rõ trong tâm trí.

Nhà ngoại hồi đó trồng nhiều cau, mỗi khi ba má về chơi, biết tôi thích, lần nào ngoại cũng gởi cho vài cái quạt làm bằng mo cau. Có cái mới tinh, cái thì đã nhiều vết sờn quanh mép quạt, chỗ tay cầm lấm tấm dấu thâm kim vì bám mồ hôi. Tôi rất quý và tưng tiu những cái quạt ngoại gửi cho. Phần ba má thì được ngoại cho một vài keo cau khô để ăn dần. Bà ngoại ghiền ăn trầu, nên trong nhà lúc nào cũng phải có cau tươi, rồi cau khô dự trữ.

Hàng cau, bờ dừa, rưng rưng kỷ niệm tuổi ấu thơ. Ảnh: HUỲNH LÂM

Lúc tôi còn nhỏ xíu, ba má đã xin giống cau của ngoại về, trồng được hai cây bên hè. Má nói, trồng cau để lâu lâu ngoại xuống chơi, có cau cho ngoại ăn trầu. Hai cây cau bên hè ấy đã gắn liền với những ngày thơ của anh em nhà tôi, với biết bao là kỷ niệm hồn nhiên, trong trẻo.

Cây cau lớn khá nhanh, trồng vài năm đã vượt lên cao vút; cau xếp vào hàng “lão” thì chiều cao trên mười thước là chuyện bình thường. Thân cau thẳng đuột như nến, cấu tạo khá giống với thân dừa, nhưng mảnh dẻ hơn nhiều, bề hoành chỉ chừng năm sáu tấc. Với hình dáng như thế, chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua, từng chùm lá, buồng cau tít trên cao lại xào xạc, đong đưa.

Cũng như cây dừa, cau trưởng thành trổ khá nhiều buồng cách quãng nhau không xa, những buồng cau sai dễ có đến hàng trăm trái. Buồng cau được chọn thu hoạch thông qua đánh giá bằng cảm quan về màu sắc của trái cau. Mỗi ngày qua đi thì trái cau sậm màu thêm một chút. Người có kinh nghiệm, nhìn sơ qua màu vỏ là biết buồng cau nào còn non, buồng cau nào vừa ăn.

Với những cây cau lão, muốn lấy buồng, không còn cách nào ngoài việc leo lên tận ngọn. Công việc này chỉ có thanh niên trai tráng mới đủ sức làm, nhưng thường phải có “dây nài” đi theo.

Dây nài khá đơn giản, làm từ dây chuối khô bện, ngâm nước cho dẻo hoặc một đoạn dây dù dài chừng bảy tám tấc, buộc chặt hai đầu với nhau, sau đó luồn vào nối hai bàn chân người leo cau để tăng ma sát. Những người leo cau giỏi, mang nài vô là “đi” thoăn thoắt một hơi từ gốc tới ngọn. Leo cau phải mang theo dao để cắt buồng và một sợi dây dài, loại chắc. Buồng cau sau khi chặt ra được buộc dây, thả từ từ xuống đất trong sự hồi hộp và thán phục của những người bên dưới.

Hồi nhỏ, tôi hay theo các anh trong nhà đi hái cau rồi giành xách buồng cau. Buồng cau nặng trịch, rinh è ạch, phải dừng lại… thở dốc vài bận mới đem vô tới nhà.

Cau đem vô nhà, trước tiên là lặt trái rồi chẻ hai lấy ruột. Chẻ cau chỉ cần dùng dao bén loại thường, nhưng khâu tách ruột ra khỏi vỏ phải dùng một công cụ đặc biệt, gọi là “dao cau”. Loại dao này đã lâu tôi không còn nhìn thấy.

Dao cau có hình dáng rất đặc trưng, với cán dài gấp đôi phần lưỡi. Trong tổng thể chiều dài lưỡi dao chừng một tấc thì một phần ba là mũi nhọn, hai phần ba phía gần cán được rèn to bản, nhìn mặt ngang như một ngọn núi nhô cao. Có thể mường tượng dao cau với hình dáng con lạc đà, hoặc phần đầu của loài cá heo. Phần lưng nhô lên làm điểm tựa và tăng lực cho bàn tay, phần nhọn để tách ruột cau cho dễ dàng. Trái cau chỉ lớn tương đương cái trứng gà, nhưng được cái vỏ mỏng nên phần ruột thu được khá lớn. Vỏ cau khi ấy thường được cắt thành nhiều miếng nhỏ bằng ngón tay út, giắt trên vách nhà để dành… chà răng cho sạch, vì thời đó kem đánh răng rất hiếm.

Ruột cau có màu hồng sẫm bắt mắt, nếu nhà có người ăn trầu thì ăn ngay cau tươi sẽ ngon hơn. Phần lớn ruột cau sau khi tách ra thì đem đi luộc chín, sau đó vớt ra, xắt ra khoanh với độ dày vừa phải rồi dùng giần hoặc sàng phơi nắng cho thật khô. Cau khô phơi nỏ sẽ có màu huyết sậm đặc trưng, miếng cau rất cứng phải vận lực hàm răng khi cắn mới bể. Gia đình tôi xưa lúc nào cũng có sẵn vài keo cau khô, hầu như ai cũng có thói quen ăn món này. Cau khô mang vị chát, có tác dụng chống chứng “ở cổ” và tanh miệng rất tốt, nhất là sau mỗi bữa ăn. Những năm đầu đi làm, mỗi lần về quê tôi đều xin má ít cau khô, mỗi lần đi… nhậu về là lấy một miếng nhai tóp tép.

Người lớn chờ cau chín, còn đám trẻ thì ngày ngày trông mong cho mo cau mau rụng. Một cái mo cau rụng xuống là cả niềm sung sướng của tụi trẻ nít trong nhà. Cứ chiều chiều, năm sáu anh em, đứa ngồi, đứa kéo “tàu” mo cau vòng vòng trước sân nhà. Trạc tuổi nhau thì đứa ngồi, đứa kéo; mấy đứa nhỏ hơn thì hai ba đứa một bận cùng đi. Ðứa kéo lả mồ hôi, đám “khách” thì cười nghiêng ngả. Kéo tốc độ, có khi giữa đường tàu… lật, cả đám té lăn cù, mình mẩy, đầu cổ bám đầy bụi đất… mà vui. Tàu mo cau kéo lâu ngày mòn vẹt vẫn cứ chơi, rồi hóng chừng kiếm cái mo cau khác.

Nếu “thu hoạch” được nhiều mo cau rụng, người lớn sẽ lấy cắt làm quạt, để dành phe phẩy trong những ngày hè. Một cái mo thường cắt được chừng hai ba cái quạt. Các chị gái thì tận dụng phần bìa mo dư ra, cắt thành những miếng hình tròn lót trong lòng cái rế nồi cơm, vừa tránh lọ nồi bám vào, vừa giữ cho bền rế.

Những cây cau già, không còn ra trái hoặc bị sâu đục phá được đốn xuống, một là dùng bắc cầu qua sông, hai là bổ đôi, móc ruột làm máng xối hứng nước mưa. Thân cau cũng ưa được xả thành ván lót sàn lãng hoặc đóng sạp xuồng.

Với những nơi có nghề dệt chiếu thì thân cau rất quý, vì được sử dụng làm cây chuồi lác. Nhà tôi, những năm còn dệt chiếu có mấy cây chuồi lác bằng cau bóng dợn, lên nước nhìn rất thích mắt. Rồi nghề dệt chiếu mai một, cây chuồi lác chẳng mấy ai giữ lại làm chi...

Ngoại qua đời, không còn nghề chiếu, hai cây cau nhà tôi từ từ già đi, rồi theo ông theo bà. Vườn cau nhà ngoại với những bóng cây ngả dài trên bờ ao cũng không còn nữa. Thời hiện đại, người còn ăn trầu có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay, những vườn cau sum sê trước kia được thay thế bằng vuông tôm, ao nuôi cá công nghiệp, hoặc trồng các loài cây cho thu nhập lý tưởng hơn.

Sự tồn tại của cây cau đến giờ, lý do chính nhất, theo tôi bởi trái cau, cùng với lá trầu là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu đôi lứa. Theo phong tục truyền thống của người Việt, đám hỏi, đám cưới nhất định phải có mâm trầu cau trong phần sính lễ. Chú rể, cô dâu cùng dỡ mâm trầu cau là nghi thức bắt buộc phải có trong lễ thành hôn. Trong dòng chảy văn hoá mới, giữ được nét đẹp ấy âu cũng là điều đáng mừng.

Dưới chân cầu Mới, phía Phường 2 có mấy sạp bán trầu cau, nghe chừng đã tồn tại khá nhiều năm rồi. Mỗi lần qua đây, tôi lại tự hỏi bao nhiêu người yêu nhau đã đến đây mua cau, mua trầu rồi kết tóc, se tơ, sinh con đẻ cái? Hơn 10 năm trước, tôi cũng từng đến đó.

Ngẫm lại có lẽ, cây cau - dây trầu là một trong những hình tượng xuất hiện nhiều nhất trong các tác phẩm văn học - nghệ thuật Việt Nam. Phải đến hơn 20 năm rồi, đến giờ tôi vẫn thích xem vở cải lương “Sự tích Trầu Cau”, vẫn yêu say sưa cái giai điệu ngọt ngào của “Hoa cau vườn trầu”, vẫn rưng rưng nhớ về thuở ấu thơ khi nghe ai đó cất lên bài ca cổ “Buồng cau quê ngoại”.

Bâng khuâng nhớ bóng hình những hàng cau năm xưa, nghĩ về chặng đường sắp tới, tôi càng tin quá khứ không chỉ là kỷ niệm, mà ở đó còn có những chất liệu làm nên điểm tựa vững chắc, để con người hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn./.

 

(*) Trích trong bài vọng cổ “Buồng cau quê ngoại” của soạn giả Thu An

Tuấn Ngọc

 

Vẻ vang báo chí cách mạng địa đầu phương Nam - Bài 2: Những nhà báo trung dũng

Báo chí cách mạng tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu ghi nhận sự dũng cảm, mưu trí, kiên gan, sẵn sàng hy sinh tính mạng của bao thế hệ nhà báo trong mưa bom bão đạn để làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của “người lính đi đầu” trên mặt trận tư tưởng - văn hoá, cả trong thời chiến và thời bình. Nhiều người trong số họ đã anh dũng ngã xuống, hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của quê hương, đất nước.

Vẻ vang báo chí cách mạng địa đầu phương Nam

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, Báo chí Cách mạng Cà Mau và Bạc Liêu không thể tách rời với lịch sử Ðảng bộ tỉnh của 2 địa phương - đó là khẳng định của Nhà báo Nguyễn Duy Hoàng, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Bạc Liêu. Nhìn về quá khứ, “cây đại thụ” của làng báo Cà Mau - Bạc Liêu, Nhà báo lão thành Phạm Văn Tri (Bảy Minh), nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Cà Mau, cho rằng, trên vùng đất ở thời kỳ làng nước còn hoang sơ, con người thưa thớt, song công việc làm báo nơi địa đầu phương Nam cũng đã được nhen nhóm, từng bước hình thành hoạt động báo chí chống kẻ thù cướp nước và bán nước.“Từ buổi bình minh cách mạng và trải qua các chặng đường đấu tranh, Báo chí Cách mạng Cà Mau - Bạc Liêu luôn hiện diện, sát cánh cùng Ðảng bộ và Nhân dân, trở thành lực lượng xung kích chiến đấu quên mình, vì mục tiêu, lý tưởng của Ðảng, của cách mạng”, Nhà báo lão thành Phạm Văn Tri khẳng định.

Số hoá để phát triển nông nghiệp bền vững - Bài cuối: Nhìn về tương lai đầy triển vọng

Những giải pháp và phương hướng từ ngành nông nghiệp liên tục được đề xuất, triển khai để thúc đẩy chuyển đổi số một cách nhanh chóng, mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu phát triển nền nông nghiệp xanh, phát triển bền vững.

Số hoá để phát triển nông nghiệp bền vững - Bài 2: Bài toán cân não

Câu chuyện chuyển đổi số trong nông nghiệp Cà Mau không chỉ là hành trình số hoá những ao tôm, thửa ruộng, mà là quá trình “số hoá tư duy”, điều này không dễ dàng, khi thói quen canh tác thủ công, truyền thống đã ăn sâu vào máu thịt của người nông dân bao đời.

Số hoá để phát triển nông nghiệp bền vững

Theo “Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chỉ đạo các tỉnh, thành phố tích cực phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế trong số hoá nông nghiệp và môi trường. Mục tiêu là xây dựng nền nông nghiệp thông minh, an toàn, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao giá trị gia tăng.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài cuối: “Quê chúng ta Cà Mau”

Những ngày này, tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu đang tập trung khẩn trương cho công tác chuẩn bị hợp nhất thành tỉnh Cà Mau mới - một phiên bản được nâng cấp toàn diện, đầy kỳ vọng của Minh Hải xưa. Cà Mau - Bạc Liêu lại chung một mái nhà, một chiếc nôi với trọn vẹn những nghĩa tình, những khát vọng phát triển lớn lao, với sức vóc mạnh mẽ, thế và lực vững vàng ở địa đầu cực Nam Tổ quốc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào

Khi chủ trương hợp nhất tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu thành tỉnh Cà Mau được công bố và thông tin rộng rãi, có một điều kỳ lạ đã diễn ra. Không có sự nuối tiếc, không hề âu lo, mà trái lại, đó là sự hào hứng, phấn chấn và đồng thuận cao độ của Nhân dân 2 tỉnh. Vậy là Cà Mau - Bạc Liêu lại về chung một mái nhà, chung một khát vọng, cộng hưởng và nhân lên sức mạnh, niềm tin để cùng nhau xây dựng vùng đất phía địa đầu cực Nam Tổ quốc bừng sáng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài 2: Chặng đường 20 năm lịch sử

Tỉnh Minh Hải tồn tại trong 20 năm, từ 1976 đến hết năm 1996, vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, kể cả những thời khắc hết sức gian khó để hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử với những thành tựu hết sức to lớn, đặt nền tảng vững chắc cho đà ổn định, phát triển của 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, về sau này.

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.