(CMO) Mấy ngày gần đây, tôi đã đọc nhiều bài viết đầy xúc động của bạn bè trên mạng xã hội. Họ, vì lệnh giãn cách mà không thể về quê giỗ cha mẹ, hay ông bà. Dịch Covid thật ghê gớm, nó không chỉ bào mòn thể xác, mà còn làm tổn thương tâm hồn con người một cách âm thầm, dai dẳng.
Trông người lại ngẫm đến ta, chợt nhớ ngày giỗ ngoại cũng sắp tới rồi. Tôi không chắc ngày đó mình có được về thắp cho ngoại nén nhang hay không, dù từ nơi tôi ở về quê ngoại chỉ hơn mười cây số.
Chiều chiều ra đứng bờ ao
Trông về quê ngoại ruột đau chín chiều
Ðường không cách trở bao nhiêu
Cò bay thì được, tôi về thì không… (*)
Ngoại qua đời khi tôi mới vào đầu cấp hai. Hơn 30 năm đã trôi qua, nhưng những ấn tượng về tình thương của ông, bà ngoại dành cho tôi vẫn còn in rõ trong tâm trí.
Nhà ngoại hồi đó trồng nhiều cau, mỗi khi ba má về chơi, biết tôi thích, lần nào ngoại cũng gởi cho vài cái quạt làm bằng mo cau. Có cái mới tinh, cái thì đã nhiều vết sờn quanh mép quạt, chỗ tay cầm lấm tấm dấu thâm kim vì bám mồ hôi. Tôi rất quý và tưng tiu những cái quạt ngoại gửi cho. Phần ba má thì được ngoại cho một vài keo cau khô để ăn dần. Bà ngoại ghiền ăn trầu, nên trong nhà lúc nào cũng phải có cau tươi, rồi cau khô dự trữ.
Hàng cau, bờ dừa, rưng rưng kỷ niệm tuổi ấu thơ. Ảnh: HUỲNH LÂM |
Lúc tôi còn nhỏ xíu, ba má đã xin giống cau của ngoại về, trồng được hai cây bên hè. Má nói, trồng cau để lâu lâu ngoại xuống chơi, có cau cho ngoại ăn trầu. Hai cây cau bên hè ấy đã gắn liền với những ngày thơ của anh em nhà tôi, với biết bao là kỷ niệm hồn nhiên, trong trẻo.
Cây cau lớn khá nhanh, trồng vài năm đã vượt lên cao vút; cau xếp vào hàng “lão” thì chiều cao trên mười thước là chuyện bình thường. Thân cau thẳng đuột như nến, cấu tạo khá giống với thân dừa, nhưng mảnh dẻ hơn nhiều, bề hoành chỉ chừng năm sáu tấc. Với hình dáng như thế, chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua, từng chùm lá, buồng cau tít trên cao lại xào xạc, đong đưa.
Cũng như cây dừa, cau trưởng thành trổ khá nhiều buồng cách quãng nhau không xa, những buồng cau sai dễ có đến hàng trăm trái. Buồng cau được chọn thu hoạch thông qua đánh giá bằng cảm quan về màu sắc của trái cau. Mỗi ngày qua đi thì trái cau sậm màu thêm một chút. Người có kinh nghiệm, nhìn sơ qua màu vỏ là biết buồng cau nào còn non, buồng cau nào vừa ăn.
Với những cây cau lão, muốn lấy buồng, không còn cách nào ngoài việc leo lên tận ngọn. Công việc này chỉ có thanh niên trai tráng mới đủ sức làm, nhưng thường phải có “dây nài” đi theo.
Dây nài khá đơn giản, làm từ dây chuối khô bện, ngâm nước cho dẻo hoặc một đoạn dây dù dài chừng bảy tám tấc, buộc chặt hai đầu với nhau, sau đó luồn vào nối hai bàn chân người leo cau để tăng ma sát. Những người leo cau giỏi, mang nài vô là “đi” thoăn thoắt một hơi từ gốc tới ngọn. Leo cau phải mang theo dao để cắt buồng và một sợi dây dài, loại chắc. Buồng cau sau khi chặt ra được buộc dây, thả từ từ xuống đất trong sự hồi hộp và thán phục của những người bên dưới.
Hồi nhỏ, tôi hay theo các anh trong nhà đi hái cau rồi giành xách buồng cau. Buồng cau nặng trịch, rinh è ạch, phải dừng lại… thở dốc vài bận mới đem vô tới nhà.
Cau đem vô nhà, trước tiên là lặt trái rồi chẻ hai lấy ruột. Chẻ cau chỉ cần dùng dao bén loại thường, nhưng khâu tách ruột ra khỏi vỏ phải dùng một công cụ đặc biệt, gọi là “dao cau”. Loại dao này đã lâu tôi không còn nhìn thấy.
Dao cau có hình dáng rất đặc trưng, với cán dài gấp đôi phần lưỡi. Trong tổng thể chiều dài lưỡi dao chừng một tấc thì một phần ba là mũi nhọn, hai phần ba phía gần cán được rèn to bản, nhìn mặt ngang như một ngọn núi nhô cao. Có thể mường tượng dao cau với hình dáng con lạc đà, hoặc phần đầu của loài cá heo. Phần lưng nhô lên làm điểm tựa và tăng lực cho bàn tay, phần nhọn để tách ruột cau cho dễ dàng. Trái cau chỉ lớn tương đương cái trứng gà, nhưng được cái vỏ mỏng nên phần ruột thu được khá lớn. Vỏ cau khi ấy thường được cắt thành nhiều miếng nhỏ bằng ngón tay út, giắt trên vách nhà để dành… chà răng cho sạch, vì thời đó kem đánh răng rất hiếm.
Ruột cau có màu hồng sẫm bắt mắt, nếu nhà có người ăn trầu thì ăn ngay cau tươi sẽ ngon hơn. Phần lớn ruột cau sau khi tách ra thì đem đi luộc chín, sau đó vớt ra, xắt ra khoanh với độ dày vừa phải rồi dùng giần hoặc sàng phơi nắng cho thật khô. Cau khô phơi nỏ sẽ có màu huyết sậm đặc trưng, miếng cau rất cứng phải vận lực hàm răng khi cắn mới bể. Gia đình tôi xưa lúc nào cũng có sẵn vài keo cau khô, hầu như ai cũng có thói quen ăn món này. Cau khô mang vị chát, có tác dụng chống chứng “ở cổ” và tanh miệng rất tốt, nhất là sau mỗi bữa ăn. Những năm đầu đi làm, mỗi lần về quê tôi đều xin má ít cau khô, mỗi lần đi… nhậu về là lấy một miếng nhai tóp tép.
Người lớn chờ cau chín, còn đám trẻ thì ngày ngày trông mong cho mo cau mau rụng. Một cái mo cau rụng xuống là cả niềm sung sướng của tụi trẻ nít trong nhà. Cứ chiều chiều, năm sáu anh em, đứa ngồi, đứa kéo “tàu” mo cau vòng vòng trước sân nhà. Trạc tuổi nhau thì đứa ngồi, đứa kéo; mấy đứa nhỏ hơn thì hai ba đứa một bận cùng đi. Ðứa kéo lả mồ hôi, đám “khách” thì cười nghiêng ngả. Kéo tốc độ, có khi giữa đường tàu… lật, cả đám té lăn cù, mình mẩy, đầu cổ bám đầy bụi đất… mà vui. Tàu mo cau kéo lâu ngày mòn vẹt vẫn cứ chơi, rồi hóng chừng kiếm cái mo cau khác.
Nếu “thu hoạch” được nhiều mo cau rụng, người lớn sẽ lấy cắt làm quạt, để dành phe phẩy trong những ngày hè. Một cái mo thường cắt được chừng hai ba cái quạt. Các chị gái thì tận dụng phần bìa mo dư ra, cắt thành những miếng hình tròn lót trong lòng cái rế nồi cơm, vừa tránh lọ nồi bám vào, vừa giữ cho bền rế.
Những cây cau già, không còn ra trái hoặc bị sâu đục phá được đốn xuống, một là dùng bắc cầu qua sông, hai là bổ đôi, móc ruột làm máng xối hứng nước mưa. Thân cau cũng ưa được xả thành ván lót sàn lãng hoặc đóng sạp xuồng.
Với những nơi có nghề dệt chiếu thì thân cau rất quý, vì được sử dụng làm cây chuồi lác. Nhà tôi, những năm còn dệt chiếu có mấy cây chuồi lác bằng cau bóng dợn, lên nước nhìn rất thích mắt. Rồi nghề dệt chiếu mai một, cây chuồi lác chẳng mấy ai giữ lại làm chi...
Ngoại qua đời, không còn nghề chiếu, hai cây cau nhà tôi từ từ già đi, rồi theo ông theo bà. Vườn cau nhà ngoại với những bóng cây ngả dài trên bờ ao cũng không còn nữa. Thời hiện đại, người còn ăn trầu có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay, những vườn cau sum sê trước kia được thay thế bằng vuông tôm, ao nuôi cá công nghiệp, hoặc trồng các loài cây cho thu nhập lý tưởng hơn.
Sự tồn tại của cây cau đến giờ, lý do chính nhất, theo tôi bởi trái cau, cùng với lá trầu là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu đôi lứa. Theo phong tục truyền thống của người Việt, đám hỏi, đám cưới nhất định phải có mâm trầu cau trong phần sính lễ. Chú rể, cô dâu cùng dỡ mâm trầu cau là nghi thức bắt buộc phải có trong lễ thành hôn. Trong dòng chảy văn hoá mới, giữ được nét đẹp ấy âu cũng là điều đáng mừng.
Dưới chân cầu Mới, phía Phường 2 có mấy sạp bán trầu cau, nghe chừng đã tồn tại khá nhiều năm rồi. Mỗi lần qua đây, tôi lại tự hỏi bao nhiêu người yêu nhau đã đến đây mua cau, mua trầu rồi kết tóc, se tơ, sinh con đẻ cái? Hơn 10 năm trước, tôi cũng từng đến đó.
Ngẫm lại có lẽ, cây cau - dây trầu là một trong những hình tượng xuất hiện nhiều nhất trong các tác phẩm văn học - nghệ thuật Việt Nam. Phải đến hơn 20 năm rồi, đến giờ tôi vẫn thích xem vở cải lương “Sự tích Trầu Cau”, vẫn yêu say sưa cái giai điệu ngọt ngào của “Hoa cau vườn trầu”, vẫn rưng rưng nhớ về thuở ấu thơ khi nghe ai đó cất lên bài ca cổ “Buồng cau quê ngoại”.
Bâng khuâng nhớ bóng hình những hàng cau năm xưa, nghĩ về chặng đường sắp tới, tôi càng tin quá khứ không chỉ là kỷ niệm, mà ở đó còn có những chất liệu làm nên điểm tựa vững chắc, để con người hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn./.
(*) Trích trong bài vọng cổ “Buồng cau quê ngoại” của soạn giả Thu An
Tuấn Ngọc