Gần một thế kỷ ra đời, nghệ thuật sân khấu dù kê (gọi tắt là dù kê) đã trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu trong đời sống đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ. Vừa qua, dù kê đã được Bộ VH-TT&DL đưa vào danh sách các di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại dự kiến lập hồ sơ trình UNESCO công nhận giai đoạn 2012 - 2016.
Khẳng định giá trị một di sản văn hóa dân tộc
Dù kê ra đời những năm đầu thập niên 20 thế kỷ XX - khá muộn so với tiến trình lịch sử văn hóa Khmer Nam bộ. Năm 1985, từ vở diễn Mối tình Bôpha Rạngxây của đoàn nghệ thuật Ánh Bình Minh (tỉnh Trà Vinh) đoạt huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, Bộ VH-TT đã công nhận đây là một trong những loại hình sân khấu chuyên nghiệp ở Việt Nam. Sự công nhận chính thức của Nhà nước đã góp thêm niềm tự hào cho đồng bào, khơi thêm nguồn động viên, khích lệ cho các đoàn diễn, giới nghệ sĩ…
Theo các tài liệu nghiên cứu, đặc điểm độc đáo của dù kê chính là sự hòa trộn các loại hình sân khấu như hát Tiều, hát Quảng của người Hoa; ca ra bộ (sau này là cải lương) của người Việt, nhưng trước hết là sự kế thừa sân khấu truyền thống của người Khmer Nam bộ - nghệ thuật sân khấu Rô-băm. Có thể nói, do đặt trong bối cảnh tổng hòa của sân khấu ba dân tộc nên sau khi ra đời, dù kê đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm không chỉ của người Khmer mà còn có cả người Hoa và người Kinh.
![]() |
Nghệ thuật dù kê đang đứng trước ngưỡng cửa hội nhập vào di sản văn hóa thế giới. Ảnh: C.T |
Bảo tồn gắn với phát huy giá trị
Trước ngưỡng cửa gia nhập di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, những người có trách nhiệm “gánh” khá nhiều nhiệm vụ để dù kê xứng đáng trở thành di sản văn hóa tầm thế giới. Trong đó, nhiệm vụ bảo tồn gắn liền với phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật này được đặt lên hàng đầu. Bảo tồn gìn giữ nhưng phải phát huy để làm cho tầm giá trị của nó được lan tỏa sâu rộng, đó mới là then chốt.
Trước hết là một cơ chế đãi ngộ hợp lý để chăm lo tốt hơn đời sống của đội ngũ văn nghệ sĩ, nghệ nhân, đặc biệt là những nghệ nhân có tuổi, có chuyên môn và tâm huyết, những người đóng vai trò “cầm lái” trực tiếp làm công tác bảo tồn, họ chính là những “kho sử sống” về loại hình dù kê; đãi ngộ văn nghệ sĩ lão thành đồng thời phải có sự tìm tòi, phát hiện, chăm bồi cho đội ngũ trẻ. Đối với các đoàn nghệ thuật Khmer thì việc xây dựng vở diễn mới có chất lượng, được công chúng đón nhận, thậm chí là đưa ra khảo sát nhu cầu công chúng trước khi thành vở là điều cần thiết. Bảo tồn những vở diễn cũ là điều cần nhưng mở rộng chủ đề tư tưởng cho những vở mới cũng là việc cấp thiết để dù kê vừa giữ được bản chất nhưng vẫn hợp với hơi hướng thời đại.
Các tỉnh Nam bộ có thế mạnh về dù kê có thể kể đến như Trà Vinh, Bạc Liêu, An Giang, Sóc Trăng… Trong đó, Đoàn nghệ thuật tổng hợp Khmer Bạc Liêu là một trong những đoàn đã tạo được “thương hiệu” trong việc bảo tồn và phát huy giá trị dù kê. Đó là việc dàn dựng các trích đoạn dù kê phục vụ bà con vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer trong các dịp lễ, tết dân tộc. Từ năm 2007 đến nay, đoàn đã dựng 8 vở cho Trung tâm truyền hình Việt Nam phát sóng trên phạm vi cả nước. Theo ông Lâm Thế Hiệp, Trưởng Đoàn nghệ thuật tổng hợp Khmer Bạc Liêu, trước mắt, nhiệm vụ cần thiết phải tập trung là: đào tạo bồi dưỡng những hạt nhân kế thừa, vì hiện nay giới am hiểu về dù kê của tỉnh còn rất ít; tại các địa phương có đông đồng bào Khmer sinh sống, nên tổ chức những đội nhóm, câu lạc bộ sân khấu dù kê từ cơ sở để tạo phong trào, có thể là xây dựng những trích đoạn ngắn để biểu diễn, cốt để người dân am hiểu nhiều hơn về dù kê. Đối với đoàn thì tỉnh cần đầu tư kinh phí để xây dựng những vở diễn chất lượng cao, vừa phát huy được thế mạnh, sở trường của đoàn, vừa nâng cao hơn nữa thương hiệu đoàn nghệ thuật của tỉnh trong nhiệm vụ chung - bảo tồn và phát huy giá trị dù kê trước ngưỡng cửa đầy lạc quan đang rộng mở phía trước.
Quỳnh Anh