Từ lâu, Bạc Liêu nổi tiếng với nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ các làng nghề truyền thống. Đó là những làng nghề đan đát, những xóm làm chiếu, làm dao, làng mộc... ở huyện Phước Long, Hồng Dân. Quanh năm, khách thương hồ thường xuôi ghe về Bạc Liêu để mua những mặt hàng như giường, chiếu, dao, bánh tráng, bội, mê bồ, thúng… chở đi bán khắp các tỉnh vùng ĐBSCL. Song, nhiều làng nghề đang dần mai một và đứng trước nguy cơ bị xóa sổ. Giá trị của một làng nghề không dừng lại ở ý nghĩa kinh tế, mà còn là giá trị văn hóa gắn với nét đẹp truyền thống ở vùng nông thôn.
Với những làng nghề tồn tại cả trăm năm ở huyện Phước Long, Hồng Dân thì cái nghề gần như trở thành máu thịt, thấm sâu vào nhiều thế hệ. Khổ nỗi, sự gắn bó ấy vẫn không đủ sức để nuôi sống cả gia đình, do sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Nhiều làng nghề truyền thống trở nên hắt hiu vì đóng cửa, không ít hộ muốn bỏ nghề.
Khó đầu vào, hẹp đầu ra
Các làng nghề vốn chiếm vị trí quan trọng trong phát triển tiểu thủ công nghiệp của tỉnh và góp phần không nhỏ trong việc giải quyết thời gian nông nhàn, tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân vùng nông thôn. Tuy nhiên, do chậm cải tiến, thiếu đầu tư, nên đến nay, nhiều làng nghề vẫn còn hoạt động ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún và sản xuất chủ yếu là thủ công. Do ít được hỗ trợ vốn nên sản phẩm chưa đa dạng, phong phú, không thể cạnh tranh với những sản phẩm khác. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến đầu ra gặp khó và ngày càng bị thu hẹp.
![]() |
![]() |
* Hàng đan đát chất đống ở nhà thương lái Trần Thị Thắm do không tiêu thụ được (ảnh trên). * Bà Nguyễn Thị Chí làm nghề đan đát 44 năm, nhưng vẫn nghèo (ảnh dưới). Ảnh: P.Đ |
Đầu ra của sản phẩm quyết định sự tồn vong của một làng nghề. Nhiều thương lái mua sản phẩm của làng nghề chở ghe đi bỏ mối ở các tỉnh giờ đây thường xuyên gặp cảnh ế hàng và luôn phải neo đậu. Theo bà Trần Thị Thắm, người chuyên mua bán hàng đan đát ở ấp Nhà Lầu 2: “Trước đây, cứ 2 hoặc 3 tháng thì ghe tôi đi một chuyến hàng, nhưng từ tháng 3/2013 đến nay ghe tôi neo đậu. Bởi các đầu mối tiêu thụ ở các tỉnh như: Kiên Giang, Cần Thơ bảo hàng bán không chạy. Nếu tình trạng này còn kéo dài thì chắc tôi sẽ bỏ nghề”.
Đầu ra sản phẩm của nhiều làng nghề thu hẹp là do bị thay thế bởi các sản phẩm làm bằng nhựa, thủy tinh, kim loại... Những loại sản phẩm này (như nông cụ, dao, rổ, nia…) có chất liệu bền, mẫu mã phong phú, đa dạng, giá rẻ hơn nên sản phẩm làm bằng thủ công rất khó cạnh tranh.
Hàng bán không chạy, đẩy người dân làng nghề vào cảnh khó khăn. Người dân ở nhiều làng nghề đã thay nhau phá bỏ vùng nguyên liệu (như tre, trúc) để trồng lúa. Và khi có người đặt mua sản phẩm phải chạy đôn chạy đáo ở các tỉnh khác để mua nguyên liệu với giá đắt đỏ. Vô hình trung người dân làng nghề đã tự nâng chi phí đầu vào cho sản phẩm của mình. Cái vòng luẩn quẩn ấy đưa đến hệ quả về lâu dài là phá sản. Theo nhiều hộ làm nghề đan đát ở huyện Phước Long, với giá tre, trúc hiện nay là 2,8 triệu đồng/1.000 cây, sau khi trừ chi phí, người lao động chỉ còn lời hơn 3.000 đồng/sản phẩm. Trong khi đó, họ phải bỏ nhiều công sức (cả giờ đồng hồ) mới tạo được một sản phẩm. Vì vậy, nhiều người thà bỏ nghề đi làm thuê chứ không thể sống với nghề vì thu nhập thấp và quá bấp bênh!
Ăn trước trả sau
Từ việc thiếu nguyên liệu, ít vốn sản xuất, nên không ít hộ sản xuất ở các làng nghề đã rơi vào tình cảnh “ăn trước trả sau”. Đây là thực trạng phổ biến ở nhiều làng nghề truyền thống của tỉnh. Bà Nguyễn Thị Chí (ấp Mỹ 1, xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long) bày tỏ: “Việc nhận trước tiền công rồi đan sản phẩm để trả dần là bình thường. Gia đình tôi sống bằng nghề đan đát qua nhiều thế hệ. Tôi biết đan đát năm 16 tuổi và đã làm nghề này 44 năm, vậy mà gia đình tôi vẫn nghèo! Do không có vốn mua tre, trúc nên tôi thường phải nhận tiền trước rồi sau đó mới đan trả sản phẩm”.
Trước bức bối này, nhiều hộ nghèo ở các làng nghề thường chọn hình thức đối ứng vốn với các mối lái, hoặc vay “nóng” (với lãi suất cao) để phục vụ sản xuất khi đến mùa vụ. Bà Trần Thị Hồng Xuyên, Trưởng ban làng nghề đan đát ấp Mỹ 1, nói: “Việc hỗ trợ vốn đối ứng để bà con duy trì sản xuất gặp nhiều khó khăn. Vào những tháng ế hàng, mình vẫn phải lấy hàng để tạo điều kiện cho bà con có công ăn việc làm, duy trì làng nghề. Song, đây chỉ là giải pháp mang tính tạm thời vì nguồn vốn của Ban làng nghề cũng có hạn”.
Bỏ nghề vì không sống nổi
Hiện nay, số lượng lao động ở nhiều làng nghề giảm đi đáng kể. Với những hộ ít đất sản xuất, trước đây sống bằng nghề đan đát thì phải bỏ làng đi các tỉnh, thành khác tìm việc làm. Bà Trần Thị Tím (ấp Mỹ 1) kể: “Nhiều người ở đây lên TP. HCM tìm việc làm vì ít đất sản xuất mà đan đát thì không đủ sống. Con gái tôi đang học lớp 11, nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên cháu cũng nghỉ học đi tìm việc làm. Gia đình anh tôi (là Trần Văn Đấu) cũng bỏ nghề đi tìm việc làm ở TP. HCM”. Số lao động còn bám trụ làng nghề cũng chỉ sản xuất cầm chừng, và chiếm phần lớn là phụ nữ.
Nhiều làng nghề khác cũng đứng trước nguy cơ bị xóa sổ. Điển hình là làng nghề xóm bún (thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân). Trước đây, ấp Bà Gồng (thị trấn Ngan Dừa) có hơn 10 lò bún với công suất hơn 500kg/ngày, nhưng hiện nay chỉ còn lại 4 lò. Xóm bún đã không còn đỏ lửa như ngày nào và bánh tằm Ngan Dừa không biết tới đây sẽ còn tồn tại?
Theo số liệu của Sở Công thương, toàn tỉnh hiện có 8 làng nghề được công nhận. Các làng nghề trên đã góp phần giải quyết việc làm thường xuyên cho 1.092 hộ với trên 1.510 lao động. Qua đó cho thấy, làng nghề có một vị trí đặc biệt và quan trọng nếu được quan tâm khai thác. Không chỉ thế, làng nghề còn gắn với những nét văn hóa đặc sắc của địa phương và đây sẽ là vốn quý trong phát triển du lịch, giữ gìn truyền thống, không gian văn hóa ở vùng nông thôn.
Phạm Đoàn