Sau 17 năm thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) nông nghiệp - nông thôn, tỉnh Bạc Liêu đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần phát triển hạ tầng, giúp nông dân tăng thu nhập và tạo nên những tiền đề để Bạc Liêu tiếp tục đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH nông nghiệp - nông thôn.
Không ngừng phát triển
Với việc tập trung đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn, thời gian qua, lực lượng sản xuất phát triển nhanh trên nhiều mặt (nhất là việc thay đổi điều kiện lao động của nông dân, nâng cao năng suất lao động), quan hệ sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có bước chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng giá trị sản phẩm công nghiệp và dịch vụ.
![]() |
Đưa cơ giới hóa vào phục vụ sản xuất nông nghiệp tại huyện Hòa Bình. Ảnh: Tú Anh |
Năm 2013, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 12.502,85 tỷ đồng, GDP đạt 5.149,14 tỷ đồng, quỹ đất dùng vào nông nghiệp tăng lên 223.760ha (hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung), sản lượng lúa đạt 1,02 triệu tấn, sản lượng thủy sản 263.000 tấn (trong đó tôm 104.000 tấn). Công nghiệp chế biến, ngành nghề nông thôn tăng nhanh cả về sản lượng, giá trị tổng sản phẩm. Năm 1997, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến đạt 559,81 tỷ đồng, GDP đạt 179,14 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994). Sản lượng chế biến là 391.000 tấn gạo, 5.700 tấn thủy sản đông lạnh, 2.148 tấn thức ăn gia súc, 1.300 tấn muối Iốt. Đến năm 2013, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến đạt 5.374 tỷ đồng, GDP đạt 2.000 tỷ đồng. Sản lượng chế biến là 575.000 tấn gạo, 49.195 tấn thủy sản, 5.000 tấn thức ăn gia súc, 5.586 tấn muối Iốt.
Năm 2013, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 23,04 triệu đồng, tăng gấp 11,24 lần so với năm 1997; khoảng 54% hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch an toàn theo QCVN 02-BYT; 43% số hộ dân nông thôn có nhà xí hợp vệ sinh và 43% hộ gia đình có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh; 70% hộ có xe máy, 93% hộ có ti-vi, 40% hộ có tủ lạnh, 65% hộ có điện thoại. Các thiết chế văn hóa ở cơ sở ngày càng được quan tâm xây dựng và trang bị hiện đại, thông tin liên lạc thông suốt đến vùng sâu, vùng xa. Mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 12.000 - 13.000 lao động nông thôn.
Vẫn còn nhiều khó khăn
Trong tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp - nông thôn ở Bạc Liêu, bên cạnh những thành tựu đạt được thì cũng còn tồn tại nhiều khó khăn. Đó là trình độ phát triển nông nghiệp còn thấp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ thiếu bền vững. Riêng ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh đã gây thiệt hại cho nông dân hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Công nghiệp, dịch vụ phát triển chậm; ngành nghề nông thôn phát triển chưa đa dạng, quy mô nhỏ, ngành hàng phân tán, sử dụng nhiều công lao động, hiệu quả đầu tư thấp, khó phát triển. Việc công nhận nghề truyền thống, làng nghề, đăng ký, giám sát chất lượng sản phẩm ngành nghề nông thôn và bảo vệ môi trường làng nghề chưa được quan tâm đúng mức.
Công tác quản lý nhà nước về quy hoạch còn bất cập, sản xuất nhiều loại sản phẩm nhưng lại phân tán, manh mún, không gắn kết giữa vùng nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Thường xuyên xảy ra tình trạng được mùa rớt giá, khi trồng, khi nuôi, khi bỏ ở một bộ phận nông, ngư dân. Công tác quản lý nhà nước về chất lượng nông sản, thực phẩm và vật tư nông nghiệp còn hạn chế, yếu kém; tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng thường xuyên xảy ra, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và gây thiệt hại đối với sản xuất của nông dân. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của tỉnh nói chung và trong nội bộ ngành Nông nghiệp còn chậm; chưa phát huy tốt các nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp - nông thôn chậm đổi mới. Phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản, thực phẩm chưa cao, vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng nông sản còn thấp. Một số hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, năng lực tổ chức quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ hợp tác xã còn yếu kém.
Nhu cầu vốn đầu tư cho nông nghiệp rất lớn, trong khi nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước có giới hạn. Việc huy động các nguồn lực của nhân dân và các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do vùng nông thôn có kết cấu hạ tầng yếu kém, lực lượng lao động có trình độ tay nghề thấp; đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn, nên chưa thu hút các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và chưa đồng bộ, chất lượng thấp, năng lực phòng chống, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng còn hạn chế. Việc thực hiện chính sách an sinh xã hội còn nhiều bất cập; nhiều vấn đề bức xúc xuất hiện ở nông thôn chậm được giải quyết, nhất là những khiếu kiện về đất đai...
Cần đẩy mạnh đầu tư
Để đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH nông nghiệp - nông thôn vùng ĐBSCL nói chung và Bạc Liêu nói riêng, các ngành, địa phương cần tiếp tục tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và đẩy mạnh cải cách hành chính; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết với phát triển khoa học - công nghệ; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp - nông thôn đồng bộ, hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Quy hoạch phát triển sản xuất phải gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản và liên kết vùng. Xây dựng chuỗi ngành hàng, xây dựng và bảo vệ thương hiệu nông sản hàng hóa chủ lực tại các vùng chuyên canh theo mô hình cánh đồng mẫu lớn, cánh đồng liên kết, sản xuất theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP, GlobalGAP). Tổ chức lại sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa, tín dụng ngân hàng. Đẩy mạnh thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa và huy động các nguồn lực của toàn xã hội đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn. Giải quyết việc làm, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị với nông thôn.
Song song đó, đề xuất với Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương một số vấn đề cụ thể như: Rà soát, điều chỉnh cơ cấu đầu tư từ ngân sách Nhà nước, đảm bảo nguồn vốn cho quá trình đẩy mạnh thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp - nông thôn theo hướng “5 năm sau cao gấp 2 lần 5 năm trước” theo Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Có chính sách quản lý vật tư nông nghiệp như đối với quản lý xăng dầu (có các công cụ bình ổn giá) và sớm có quỹ bình ổn giá lương thực. Có cơ chế, chính sách đặc biệt về tín dụng (lãi suất ưu đãi theo cơ chế thị trường thấp nhất), chính sách về đất đai như đối với doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn đối với các mô hình sản xuất (nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi...) có hiệu quả cao, đòi hỏi đầu tư vốn lớn. Sớm xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp - nông thôn. Về xử lý nợ xấu trong nông nghiệp (nhất là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản) cho khoanh nợ, song song cho vay mới, gắn với thực hiện tốt chính sách bảo hiểm nông nghiệp...
Lương Ngọc Lân
(Giám đốc Sở NN&PTNT)