ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 8-2-25 03:16:14
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chị Tám Kiềng

Báo Cà Mau Người phụ nữ tật nguyền với một chân giả, lặng thầm vui sống với bà con ở đoạn cuối kinh Công Nghiệp - cầu Chữ Y. Tôi biết chị từ thời chiến tranh ác liệt và gọi bằng hai tiếng thân thương “Chế Tám” như cách gọi chị ruột của người Cà Mau, đó là chị Tám Kiềng.

Người phụ nữ tật nguyền với một chân giả, lặng thầm vui sống với bà con ở đoạn cuối kinh Công Nghiệp - cầu Chữ Y. Tôi biết chị từ thời chiến tranh ác liệt và gọi bằng hai tiếng thân thương “Chế Tám” như cách gọi chị ruột của người Cà Mau, đó là chị Tám Kiềng.

Chị Tám (1945) là vợ liệt sĩ. Anh Tám - Ðoàn Văn Châu (1940) hy sinh trong một trận công đồn ở huyện Giá Rai vào năm 1965. Qua thời con gái, chị can đảm phi thường khiến những người chứng kiến cảm phục. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng hình ảnh chị Tám trong đêm đen ấy, mỗi khi nhắc còn hiện ra trước mắt tôi…

Thật khó mà quên cảnh thời chiến, thời kỳ gian khổ ác liệt. Sau gần 5 tháng giặc “bình định cấp tốc”, “Nhổ cỏ U Minh”, tái chiếm Chi khu Rạch Ráng và chiếm đóng nhiều đồn bót dọc 2 bờ sông Ðốc, Tiểu đoàn U Minh 2 về địa bàn xã Trần Hợi điều nghiên tổ chức trận đánh "công đồn, đả viện” nhằm tiêu hao sinh lực quân giặc. Ngay trong đêm 25/2/1970, ta pháo kích đồn Rạch Ruộng, dĩ nhiên quân giặc đồn này phải kêu ứng cứu.

Sáng lại, ngày 26/2/1970, Chi khu Rạch Ráng cho 2 đại đội bảo an đi càn, tiếp viện. Mặt trận diễn ra tại cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập - ven bờ Sông Ðốc. Với lối đánh công kiên, đội đầu và tốc công sự xung phong đánh vỡ sườn, gây rối loạn đội hình quân giặc, diệt và làm bị thương 65 tên, thu nhiều vũ khí, có 1 khẩu đại liên. Ta hy sinh 4 đồng chí, còn nằm lại trận địa…

Toàn đơn vị rút về vùng Cơi Ba - Kiểu Mẫu, thuộc ấp 10C, xã Trần Hợi. Sáng 27/2/1970, Tiểu khu An Xuyên cho máy bay và pháo Chi khu Rạch Ráng yểm trợ, đổ quân xuống ngay đội hình của Tiểu đoàn U Minh 2. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt nơi địa hình vườn chuối, ta diệt và làm bị thương gần 100 tên giặc, bắn rơi 3 chiếc trực thăng của Mỹ, loại HU1A chở quân.

Ngày 28/2/1970, Tiểu đoàn U Minh 2 vượt sông Ðốc qua xã Lợi An và đêm 1/3/1970 tập kích đồn Xẽo Dá do Ðại đội bảo an 518 mới lấn chiếm, diệt và làm bị thương 70 tên, có tên Vinh trưởng đồn và tên Bi trưởng đoàn “bình định”.

Chiều ngày thứ ba, tôi quảy khẩu súng trường Ðức lội về đến nhà người chị cả của tôi ở xóm cuối kinh Tư. Vừa sụp tối, bỗng nghe tin 4 liệt sĩ hy sinh trận cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập được đưa về tới đầu kinh. Một tốp anh em cán bộ địa phương ở kinh Tư, kinh Ðòn Dong, người đốt đuốc, người cầm đèn con cóc, đèn pin lội đến để cùng lo việc mai táng. Lúc này có quân giặc ở đồn vàm, chưa có đồn Công Nghiệp Giữa, nên việc tập trung đông người tại đây chưa ngại biệt kích, chỉ đề phòng cụm pháo bầy chi khu và máy bay Mỹ phát hiện lúc ban đêm.

Người phụ nữ lội đẩy xuồng chuyển tử thi về tới đây là chị Tám Kiềng, quê ở kinh Công Nghiệp, xã Khánh Hưng A. Năm ấy, chị Tám 26 tuổi, vào công tác cơ quan phụ nữ huyện Trần Văn Thời và được phân công làm việc nặng nhọc này. Mùa khô 1970, các dòng kinh đều cạn, nước gom xuống lòng lạch chỉ còn một gang tay. Bà con cơ sở vùng ven xóm đầu kinh Ðộc Lập đã tìm cách lấy tử thi đưa xuống xuồng và kéo vô một đoạn để giao cho chị Tám tiếp nhận. Một mình chị lội dưới kinh cạn, đẩy chiếc xuồng be mười chở 4 tử thi đi hơn 5 cây số, từ nửa đoạn kinh Ðộc Lập vào kinh Chống Mỹ, thẳng qua Hào Sai, qua đầu kinh Sáu Thước về tới đầu Kinh Tư - giáp kinh Ðòn Dong.

Chị Tám đầy gan dạ, làm một việc phi thường mà chỉ có người "nặng bóng vía" mới vượt qua nổi. 4 liệt sĩ tên là: Lý, Rắn, Thanh, Hoàng đều ở trần, mặc quần ngắn, có người còn mang trên cổ ngực chiếc tu-huýt (cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung đội…), có người bị trúng viên đạn xuyên màng tang, hy sinh nằm phơi nắng suốt 3 ngày, thi thể phân huỷ, người nào 2 con mắt cũng lòi ra như mắt cua và những người tiếp cận đều phải xức dầu Cao Thiên, Huê Lạc cho đỡ nặng mùi.

Ðêm ấy, trời tối đen, qua ánh đuốc lá dừa, nhìn gương mặt chị Tám đẫm mồ hôi, bơ phờ, mất sắc. Bộ đồ đen chị mặc, quần xăn tới đầu gối để lội đẩy xuồng bê bết bùn đất, dáng mệt nhoài.

Ðó là lần vượt qua thử thách quá sức mình, chị Tám về nhà bàng hoàng, xúc động trước cảnh tượng mà chị tận mắt chứng kiến. Suốt cả tuần ám ảnh, lòng nặng trĩu, long lanh nước mắt thương xót, tội nghiệp các liệt sĩ chiến đấu hy sinh trường hợp như vậy.

*

Bẵng đi một thời gian, tôi không hay chị Tám lập gia đình. Chồng của chị là anh Tư Minh (em ruột anh Ba Gấm), Chánh Văn phòng Ban Tuyên huấn huyện Trần Văn Thời, người anh mà tôi sát cánh từ năm Mậu Thân 1968. Tôi trở lại Ban Tuyên huấn huyện sống chung với anh Tư Minh lần thứ hai vào đầu năm 1971, văn phòng tạm đóng tại nhà bác Tám Ngáo (bác gái) trên bờ trâm bầu giữa ruộng hậu kinh Ðòn Dong Ngọn giáp hậu Kinh Ngang. Tôi gặp lại chị Tám tại đây vào một buổi chiều tối. Chị mặc bộ đồ vải tơ trắng, tay chống cặp tó, tôi mới hay chị đang tật nguyền do chiến tranh và một phần cũng vì “sức mạnh” của tình yêu…

Trong năm 1970, một lần về quê chồng, chẳng may gặp giặc đồn Rạch Cui biệt kích vào, chị bị thương và được đưa ra Bệnh viện Cà Mau, chính tên bác sĩ Mỹ đã cưa 2 lần mất nguyên một chân trái của chị. Thời chiến, nhiều trường hợp như chị Tám, hễ bị thương chân đưa ra thành đều bị cưa sát xương đùi “đừng hòng hoạt động cho Việt cộng”, tàn phế suốt đời. Việc đi lại khó khăn, chị vẫn bằng mọi cách đến với anh, nhưng lần này không phải bằng trái tim an ủi, hạnh phúc đợi mong mà đó lại là lần sau cùng, một kỷ niệm buồn. “Thà một người khổ, chứ không thể khổ cả 2 người…”. Anh Tư dứt khoát như vậy!

Một người phụ nữ hết mực vì chồng đã không còn lành lặn, chưa vơi nỗi đau mất mát một phần thân thể, thì ập đến nỗi đau mất chồng. Bất hạnh, có đau đớn nào hơn cuộc đời chị Tám. Có lẽ chị không bao giờ quên được cái đêm chia tay đầy “oan nghiệt” ấy?

*

30 năm sau, tôi đi nhiều chặng về Kinh Cũ, tìm thăm anh Tư Hữu ở Quản Hảo - Cơi Tư. Anh đang giữ chiếc xáng giúp đứa cháu neo đậu nghỉ Tết. Tôi xuất hiện bất ngờ, anh Tư rất mừng. Anh làm mồi lăng xăng, rồi cầm chai nói: “Ðể tao lên bờ kiếm khúc rượu”. Sau 30 năm gặp lại, hai anh em ngồi lai rai với mồi cá chiên và hột vịt ốp la… Anh Tư giúp tôi quá giang xuồng gắn máy của một cán bộ huyện Trần Văn Thời, quê Khánh Hưng, về đến cầu Chữ Y, ghé lên nhà chị Tám Kiềng. Chị không ngờ gặp lại thằng em “biệt kích” là tôi, lại vào buổi xế trưa mùng 2 Tết Tân Tỵ 2001, chị Tám hỏi tôi: Em có muốn uống rượu không?

Chị Tám tâm sự cái lý do chị “đi bước nữa”: Anh Tư không thương, không lo được cho chị, thì chị tìm người khác, xem tốt hơn không? Người có lòng vị tha, chia sẻ chắc dễ cảm thông hơn là trách chị. Dù ai đi chăng nữa, đấy vẫn là tình người.

Với tình cảm của đứa em quê hương, dù ở đâu, tôi cũng vẫn nhớ chị Tám, bởi tôi hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của chị mà chẳng biết nói ra làm sao? Tôi nhớ câu “yêu là chết ở trong lòng một ít…”. Chị Tám bị tật nguyền, mất đi một nửa cuộc sống, một nửa phần đời… Và, chuyến vội vã tìm thăm chị Tám, tôi cảm xúc qua những dòng ký sự thơ:

TÌM CHỊ

Cầu Chữ Y rực nắng chiều xuân

Ba mươi năm, em tìm thăm chị

Thuở quê hương đầy bom đạn Mỹ

Chị “nợ duyên” với Tiểu đoàn U Minh.

Lý, Rắn, Thanh, Hoàng chiến đấu hy sinh

Ven sông Ðốc - trận “công đồn, đả viện”

Hồi ấy, chị - nhân viên phụ nữ huyện

Lội đẩy xuồng chuyển tử thi mùa khô…

Chị dành tình yêu qua thời mộng mơ

Chọn lang quân miệt Khánh Bình, Ông Bích

Về quê chồng, ngờ đâu đêm biệt kích

Lửa đạn quân thù cướp mất một chân

Lại còn nỗi đau dai dẳng, âm thầm

Chồng làm ngơ, chị buồn, không oán hận

Rồi chị có chồng, vượt lên số phận

Ðược làm mẹ hiền nuôi con lớn khôn…

Em cảm thương cuộc đời chị nhiều hơn

Gan dạ, buồn đau, đi qua cuộc chiến

Chị vui, dù đôi chân khập khiễng

Bước tiễn em qua cầu Chữ Y…

2001-2015

Nguyễn Minh

Ba ông già tuổi tỵ

Ðó là ba ông già cùng làm ở Xưởng Quân giới (XQG) Cà Mau thời kháng chiến chống Mỹ. Nói về XQG này thì những người cùng thời, tham gia kháng chiến ở Cà Mau, hầu như ai cũng biết. Họ hay gọi là xưởng ông Ba Thợ Rèn (thường gọi là Ba Lò Rèn), vì ông Ba Thợ Rèn (Nguyễn Trung Thành) là người chịu trách nhiệm lập xưởng (đầu năm 1960) và rất nổi tiếng với việc sản xuất đạn pháo lăn-xà-bom, được tuyên dương anh hùng ngay đợt đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1965); xưởng cũng hai lần được tuyên dương anh hùng.

Đi B

Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.

Những lá thư còn lại

Tự nhận mình có viết thư, biết cảm nhận cái nghĩa, cái tình qua những bức thư ấy, một thời là công cụ giao lưu tình cảm gia đình, đồng đội, bạn bè, có khi là cánh én báo hiệu tình yêu nảy nở. Còn vì một tiếc nuối khác, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, sứ mệnh của những lá thư đó cũng đã chấm dứt vai trò cầu nối của mình, những lá thư còn được giữ lại như một kỷ vật quý báu, nếu được xếp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, chỉ những chữ đề “Con gái thương yêu của mẹ"; "Anh Chín kính mến"; "Em thân yêu...” người xem dễ chạm vào xúc động, bâng khuâng.

Ăn Tết ở làng rừng

Tôi đang mở trường tư thục, dạy trên 150 học trò. Bí thư Chi bộ xã Lương Hoà là đồng chí Tư Tài, đem nghị quyết Tỉnh uỷ Bến Tre rút tôi về Ban Văn nghệ tỉnh. Chưa kịp thu xếp đi, thì má tôi (bà Hồ Thị Luỹ) ở Cà Mau qua tới. Má tôi chẻ trái chuối xiêm ra, đưa cho tôi lá thư ngắn của anh Hai Thống (Trần Hữu Vịnh, Bí thư xã Khánh Bình Tây, sau này là Phó bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) kèm theo mấy lời chú Chín Thép, Uỷ viên Thường vụ xã (viết chung ý là “Đám giỗ làm lớn cúng ông bà, chú phải về quê nhà để cúng ông bà báo hiếu”).

Về địa chỉ đỏ...

Những ngày giáp Tết, lực lượng đoàn viên, thanh niên Công an tỉnh Cà Mau có chuyến về nguồn thăm các di tích lịch sử tiêu biểu

Miền nhớ thiêng liêng

Chuỗi hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra trang trọng, ý nghĩa trên đất Cà Mau. Ngược miền ký ức, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh, đồng bào miền Nam như được sống lại giai đoạn thiêng liêng của cuộc chuyển quân lịch sử. Họ gặp lại nhau, cảm xúc dâng trào, bao câu chuyện về những ngày chiến đấu, lao động, học tập nối mạch ùa về...

Ðại tá từ du kích

Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.

Nửa đời tìm nhau

Ở các địa phương miền Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm gặp một số cán bộ lão thành, học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc năm 1954. Trong câu chuyện kể của họ, ngoài ký ức đẹp về tấm lòng Nhân dân miền Bắc dành cho HSMN tham gia học tập, từ nơi ở, chén cơm, manh áo... còn là những mối tình “cơ duyên trời định”. Người còn sống giờ tuổi đã ngoài 80, nhưng khi nhắc nhớ về kỷ niệm ở miền Bắc, họ lại ngời lên những ký ức năm xưa.

Người về bến cũ

Bến Sông Ðốc - địa danh gắn liền với sự kiện lịch sử chuyến tàu tập kết, những ngày cuối năm 2024 chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của cựu học sinh miền Nam. Họ, những người từng bước lên tàu rời quê hương cách đây 70 năm để ra Bắc học tập, cống hiến, nay trở lại bến xưa với mái đầu bạc trắng và trái tim ngập tràn cảm xúc.

Về căn cứ xưa, nghe kể chuyện chở che bộ đội đánh giặc...

Trong kháng chiến chống Mỹ, Xẻo Trê (thuộc ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước) được chọn làm nơi đóng quân của Ban Chỉ huy Tỉnh đội. Suốt 9 năm (1964-1973), căn cứ Xẻo Trê vẫn giữ được bí mật, an toàn tuyệt đối, tạo sức mạnh để tấn công kẻ địch. Ðó là nhờ vào lòng dân luôn đùm bọc che chở, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ khu căn cứ.