ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 19:16:51
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chị Tám Kiềng

Báo Cà Mau Người phụ nữ tật nguyền với một chân giả, lặng thầm vui sống với bà con ở đoạn cuối kinh Công Nghiệp - cầu Chữ Y. Tôi biết chị từ thời chiến tranh ác liệt và gọi bằng hai tiếng thân thương “Chế Tám” như cách gọi chị ruột của người Cà Mau, đó là chị Tám Kiềng.

Người phụ nữ tật nguyền với một chân giả, lặng thầm vui sống với bà con ở đoạn cuối kinh Công Nghiệp - cầu Chữ Y. Tôi biết chị từ thời chiến tranh ác liệt và gọi bằng hai tiếng thân thương “Chế Tám” như cách gọi chị ruột của người Cà Mau, đó là chị Tám Kiềng.

Chị Tám (1945) là vợ liệt sĩ. Anh Tám - Ðoàn Văn Châu (1940) hy sinh trong một trận công đồn ở huyện Giá Rai vào năm 1965. Qua thời con gái, chị can đảm phi thường khiến những người chứng kiến cảm phục. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng hình ảnh chị Tám trong đêm đen ấy, mỗi khi nhắc còn hiện ra trước mắt tôi…

Thật khó mà quên cảnh thời chiến, thời kỳ gian khổ ác liệt. Sau gần 5 tháng giặc “bình định cấp tốc”, “Nhổ cỏ U Minh”, tái chiếm Chi khu Rạch Ráng và chiếm đóng nhiều đồn bót dọc 2 bờ sông Ðốc, Tiểu đoàn U Minh 2 về địa bàn xã Trần Hợi điều nghiên tổ chức trận đánh "công đồn, đả viện” nhằm tiêu hao sinh lực quân giặc. Ngay trong đêm 25/2/1970, ta pháo kích đồn Rạch Ruộng, dĩ nhiên quân giặc đồn này phải kêu ứng cứu.

Sáng lại, ngày 26/2/1970, Chi khu Rạch Ráng cho 2 đại đội bảo an đi càn, tiếp viện. Mặt trận diễn ra tại cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập - ven bờ Sông Ðốc. Với lối đánh công kiên, đội đầu và tốc công sự xung phong đánh vỡ sườn, gây rối loạn đội hình quân giặc, diệt và làm bị thương 65 tên, thu nhiều vũ khí, có 1 khẩu đại liên. Ta hy sinh 4 đồng chí, còn nằm lại trận địa…

Toàn đơn vị rút về vùng Cơi Ba - Kiểu Mẫu, thuộc ấp 10C, xã Trần Hợi. Sáng 27/2/1970, Tiểu khu An Xuyên cho máy bay và pháo Chi khu Rạch Ráng yểm trợ, đổ quân xuống ngay đội hình của Tiểu đoàn U Minh 2. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt nơi địa hình vườn chuối, ta diệt và làm bị thương gần 100 tên giặc, bắn rơi 3 chiếc trực thăng của Mỹ, loại HU1A chở quân.

Ngày 28/2/1970, Tiểu đoàn U Minh 2 vượt sông Ðốc qua xã Lợi An và đêm 1/3/1970 tập kích đồn Xẽo Dá do Ðại đội bảo an 518 mới lấn chiếm, diệt và làm bị thương 70 tên, có tên Vinh trưởng đồn và tên Bi trưởng đoàn “bình định”.

Chiều ngày thứ ba, tôi quảy khẩu súng trường Ðức lội về đến nhà người chị cả của tôi ở xóm cuối kinh Tư. Vừa sụp tối, bỗng nghe tin 4 liệt sĩ hy sinh trận cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập được đưa về tới đầu kinh. Một tốp anh em cán bộ địa phương ở kinh Tư, kinh Ðòn Dong, người đốt đuốc, người cầm đèn con cóc, đèn pin lội đến để cùng lo việc mai táng. Lúc này có quân giặc ở đồn vàm, chưa có đồn Công Nghiệp Giữa, nên việc tập trung đông người tại đây chưa ngại biệt kích, chỉ đề phòng cụm pháo bầy chi khu và máy bay Mỹ phát hiện lúc ban đêm.

Người phụ nữ lội đẩy xuồng chuyển tử thi về tới đây là chị Tám Kiềng, quê ở kinh Công Nghiệp, xã Khánh Hưng A. Năm ấy, chị Tám 26 tuổi, vào công tác cơ quan phụ nữ huyện Trần Văn Thời và được phân công làm việc nặng nhọc này. Mùa khô 1970, các dòng kinh đều cạn, nước gom xuống lòng lạch chỉ còn một gang tay. Bà con cơ sở vùng ven xóm đầu kinh Ðộc Lập đã tìm cách lấy tử thi đưa xuống xuồng và kéo vô một đoạn để giao cho chị Tám tiếp nhận. Một mình chị lội dưới kinh cạn, đẩy chiếc xuồng be mười chở 4 tử thi đi hơn 5 cây số, từ nửa đoạn kinh Ðộc Lập vào kinh Chống Mỹ, thẳng qua Hào Sai, qua đầu kinh Sáu Thước về tới đầu Kinh Tư - giáp kinh Ðòn Dong.

Chị Tám đầy gan dạ, làm một việc phi thường mà chỉ có người "nặng bóng vía" mới vượt qua nổi. 4 liệt sĩ tên là: Lý, Rắn, Thanh, Hoàng đều ở trần, mặc quần ngắn, có người còn mang trên cổ ngực chiếc tu-huýt (cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung đội…), có người bị trúng viên đạn xuyên màng tang, hy sinh nằm phơi nắng suốt 3 ngày, thi thể phân huỷ, người nào 2 con mắt cũng lòi ra như mắt cua và những người tiếp cận đều phải xức dầu Cao Thiên, Huê Lạc cho đỡ nặng mùi.

Ðêm ấy, trời tối đen, qua ánh đuốc lá dừa, nhìn gương mặt chị Tám đẫm mồ hôi, bơ phờ, mất sắc. Bộ đồ đen chị mặc, quần xăn tới đầu gối để lội đẩy xuồng bê bết bùn đất, dáng mệt nhoài.

Ðó là lần vượt qua thử thách quá sức mình, chị Tám về nhà bàng hoàng, xúc động trước cảnh tượng mà chị tận mắt chứng kiến. Suốt cả tuần ám ảnh, lòng nặng trĩu, long lanh nước mắt thương xót, tội nghiệp các liệt sĩ chiến đấu hy sinh trường hợp như vậy.

*

Bẵng đi một thời gian, tôi không hay chị Tám lập gia đình. Chồng của chị là anh Tư Minh (em ruột anh Ba Gấm), Chánh Văn phòng Ban Tuyên huấn huyện Trần Văn Thời, người anh mà tôi sát cánh từ năm Mậu Thân 1968. Tôi trở lại Ban Tuyên huấn huyện sống chung với anh Tư Minh lần thứ hai vào đầu năm 1971, văn phòng tạm đóng tại nhà bác Tám Ngáo (bác gái) trên bờ trâm bầu giữa ruộng hậu kinh Ðòn Dong Ngọn giáp hậu Kinh Ngang. Tôi gặp lại chị Tám tại đây vào một buổi chiều tối. Chị mặc bộ đồ vải tơ trắng, tay chống cặp tó, tôi mới hay chị đang tật nguyền do chiến tranh và một phần cũng vì “sức mạnh” của tình yêu…

Trong năm 1970, một lần về quê chồng, chẳng may gặp giặc đồn Rạch Cui biệt kích vào, chị bị thương và được đưa ra Bệnh viện Cà Mau, chính tên bác sĩ Mỹ đã cưa 2 lần mất nguyên một chân trái của chị. Thời chiến, nhiều trường hợp như chị Tám, hễ bị thương chân đưa ra thành đều bị cưa sát xương đùi “đừng hòng hoạt động cho Việt cộng”, tàn phế suốt đời. Việc đi lại khó khăn, chị vẫn bằng mọi cách đến với anh, nhưng lần này không phải bằng trái tim an ủi, hạnh phúc đợi mong mà đó lại là lần sau cùng, một kỷ niệm buồn. “Thà một người khổ, chứ không thể khổ cả 2 người…”. Anh Tư dứt khoát như vậy!

Một người phụ nữ hết mực vì chồng đã không còn lành lặn, chưa vơi nỗi đau mất mát một phần thân thể, thì ập đến nỗi đau mất chồng. Bất hạnh, có đau đớn nào hơn cuộc đời chị Tám. Có lẽ chị không bao giờ quên được cái đêm chia tay đầy “oan nghiệt” ấy?

*

30 năm sau, tôi đi nhiều chặng về Kinh Cũ, tìm thăm anh Tư Hữu ở Quản Hảo - Cơi Tư. Anh đang giữ chiếc xáng giúp đứa cháu neo đậu nghỉ Tết. Tôi xuất hiện bất ngờ, anh Tư rất mừng. Anh làm mồi lăng xăng, rồi cầm chai nói: “Ðể tao lên bờ kiếm khúc rượu”. Sau 30 năm gặp lại, hai anh em ngồi lai rai với mồi cá chiên và hột vịt ốp la… Anh Tư giúp tôi quá giang xuồng gắn máy của một cán bộ huyện Trần Văn Thời, quê Khánh Hưng, về đến cầu Chữ Y, ghé lên nhà chị Tám Kiềng. Chị không ngờ gặp lại thằng em “biệt kích” là tôi, lại vào buổi xế trưa mùng 2 Tết Tân Tỵ 2001, chị Tám hỏi tôi: Em có muốn uống rượu không?

Chị Tám tâm sự cái lý do chị “đi bước nữa”: Anh Tư không thương, không lo được cho chị, thì chị tìm người khác, xem tốt hơn không? Người có lòng vị tha, chia sẻ chắc dễ cảm thông hơn là trách chị. Dù ai đi chăng nữa, đấy vẫn là tình người.

Với tình cảm của đứa em quê hương, dù ở đâu, tôi cũng vẫn nhớ chị Tám, bởi tôi hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của chị mà chẳng biết nói ra làm sao? Tôi nhớ câu “yêu là chết ở trong lòng một ít…”. Chị Tám bị tật nguyền, mất đi một nửa cuộc sống, một nửa phần đời… Và, chuyến vội vã tìm thăm chị Tám, tôi cảm xúc qua những dòng ký sự thơ:

TÌM CHỊ

Cầu Chữ Y rực nắng chiều xuân

Ba mươi năm, em tìm thăm chị

Thuở quê hương đầy bom đạn Mỹ

Chị “nợ duyên” với Tiểu đoàn U Minh.

Lý, Rắn, Thanh, Hoàng chiến đấu hy sinh

Ven sông Ðốc - trận “công đồn, đả viện”

Hồi ấy, chị - nhân viên phụ nữ huyện

Lội đẩy xuồng chuyển tử thi mùa khô…

Chị dành tình yêu qua thời mộng mơ

Chọn lang quân miệt Khánh Bình, Ông Bích

Về quê chồng, ngờ đâu đêm biệt kích

Lửa đạn quân thù cướp mất một chân

Lại còn nỗi đau dai dẳng, âm thầm

Chồng làm ngơ, chị buồn, không oán hận

Rồi chị có chồng, vượt lên số phận

Ðược làm mẹ hiền nuôi con lớn khôn…

Em cảm thương cuộc đời chị nhiều hơn

Gan dạ, buồn đau, đi qua cuộc chiến

Chị vui, dù đôi chân khập khiễng

Bước tiễn em qua cầu Chữ Y…

2001-2015

Nguyễn Minh

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.