ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 7-6-25 17:30:22
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chị Tám Kiềng

Báo Cà Mau Người phụ nữ tật nguyền với một chân giả, lặng thầm vui sống với bà con ở đoạn cuối kinh Công Nghiệp - cầu Chữ Y. Tôi biết chị từ thời chiến tranh ác liệt và gọi bằng hai tiếng thân thương “Chế Tám” như cách gọi chị ruột của người Cà Mau, đó là chị Tám Kiềng.

Người phụ nữ tật nguyền với một chân giả, lặng thầm vui sống với bà con ở đoạn cuối kinh Công Nghiệp - cầu Chữ Y. Tôi biết chị từ thời chiến tranh ác liệt và gọi bằng hai tiếng thân thương “Chế Tám” như cách gọi chị ruột của người Cà Mau, đó là chị Tám Kiềng.

Chị Tám (1945) là vợ liệt sĩ. Anh Tám - Ðoàn Văn Châu (1940) hy sinh trong một trận công đồn ở huyện Giá Rai vào năm 1965. Qua thời con gái, chị can đảm phi thường khiến những người chứng kiến cảm phục. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng hình ảnh chị Tám trong đêm đen ấy, mỗi khi nhắc còn hiện ra trước mắt tôi…

Thật khó mà quên cảnh thời chiến, thời kỳ gian khổ ác liệt. Sau gần 5 tháng giặc “bình định cấp tốc”, “Nhổ cỏ U Minh”, tái chiếm Chi khu Rạch Ráng và chiếm đóng nhiều đồn bót dọc 2 bờ sông Ðốc, Tiểu đoàn U Minh 2 về địa bàn xã Trần Hợi điều nghiên tổ chức trận đánh "công đồn, đả viện” nhằm tiêu hao sinh lực quân giặc. Ngay trong đêm 25/2/1970, ta pháo kích đồn Rạch Ruộng, dĩ nhiên quân giặc đồn này phải kêu ứng cứu.

Sáng lại, ngày 26/2/1970, Chi khu Rạch Ráng cho 2 đại đội bảo an đi càn, tiếp viện. Mặt trận diễn ra tại cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập - ven bờ Sông Ðốc. Với lối đánh công kiên, đội đầu và tốc công sự xung phong đánh vỡ sườn, gây rối loạn đội hình quân giặc, diệt và làm bị thương 65 tên, thu nhiều vũ khí, có 1 khẩu đại liên. Ta hy sinh 4 đồng chí, còn nằm lại trận địa…

Toàn đơn vị rút về vùng Cơi Ba - Kiểu Mẫu, thuộc ấp 10C, xã Trần Hợi. Sáng 27/2/1970, Tiểu khu An Xuyên cho máy bay và pháo Chi khu Rạch Ráng yểm trợ, đổ quân xuống ngay đội hình của Tiểu đoàn U Minh 2. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt nơi địa hình vườn chuối, ta diệt và làm bị thương gần 100 tên giặc, bắn rơi 3 chiếc trực thăng của Mỹ, loại HU1A chở quân.

Ngày 28/2/1970, Tiểu đoàn U Minh 2 vượt sông Ðốc qua xã Lợi An và đêm 1/3/1970 tập kích đồn Xẽo Dá do Ðại đội bảo an 518 mới lấn chiếm, diệt và làm bị thương 70 tên, có tên Vinh trưởng đồn và tên Bi trưởng đoàn “bình định”.

Chiều ngày thứ ba, tôi quảy khẩu súng trường Ðức lội về đến nhà người chị cả của tôi ở xóm cuối kinh Tư. Vừa sụp tối, bỗng nghe tin 4 liệt sĩ hy sinh trận cánh đồng đầu kinh Ðộc Lập được đưa về tới đầu kinh. Một tốp anh em cán bộ địa phương ở kinh Tư, kinh Ðòn Dong, người đốt đuốc, người cầm đèn con cóc, đèn pin lội đến để cùng lo việc mai táng. Lúc này có quân giặc ở đồn vàm, chưa có đồn Công Nghiệp Giữa, nên việc tập trung đông người tại đây chưa ngại biệt kích, chỉ đề phòng cụm pháo bầy chi khu và máy bay Mỹ phát hiện lúc ban đêm.

Người phụ nữ lội đẩy xuồng chuyển tử thi về tới đây là chị Tám Kiềng, quê ở kinh Công Nghiệp, xã Khánh Hưng A. Năm ấy, chị Tám 26 tuổi, vào công tác cơ quan phụ nữ huyện Trần Văn Thời và được phân công làm việc nặng nhọc này. Mùa khô 1970, các dòng kinh đều cạn, nước gom xuống lòng lạch chỉ còn một gang tay. Bà con cơ sở vùng ven xóm đầu kinh Ðộc Lập đã tìm cách lấy tử thi đưa xuống xuồng và kéo vô một đoạn để giao cho chị Tám tiếp nhận. Một mình chị lội dưới kinh cạn, đẩy chiếc xuồng be mười chở 4 tử thi đi hơn 5 cây số, từ nửa đoạn kinh Ðộc Lập vào kinh Chống Mỹ, thẳng qua Hào Sai, qua đầu kinh Sáu Thước về tới đầu Kinh Tư - giáp kinh Ðòn Dong.

Chị Tám đầy gan dạ, làm một việc phi thường mà chỉ có người "nặng bóng vía" mới vượt qua nổi. 4 liệt sĩ tên là: Lý, Rắn, Thanh, Hoàng đều ở trần, mặc quần ngắn, có người còn mang trên cổ ngực chiếc tu-huýt (cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung đội…), có người bị trúng viên đạn xuyên màng tang, hy sinh nằm phơi nắng suốt 3 ngày, thi thể phân huỷ, người nào 2 con mắt cũng lòi ra như mắt cua và những người tiếp cận đều phải xức dầu Cao Thiên, Huê Lạc cho đỡ nặng mùi.

Ðêm ấy, trời tối đen, qua ánh đuốc lá dừa, nhìn gương mặt chị Tám đẫm mồ hôi, bơ phờ, mất sắc. Bộ đồ đen chị mặc, quần xăn tới đầu gối để lội đẩy xuồng bê bết bùn đất, dáng mệt nhoài.

Ðó là lần vượt qua thử thách quá sức mình, chị Tám về nhà bàng hoàng, xúc động trước cảnh tượng mà chị tận mắt chứng kiến. Suốt cả tuần ám ảnh, lòng nặng trĩu, long lanh nước mắt thương xót, tội nghiệp các liệt sĩ chiến đấu hy sinh trường hợp như vậy.

*

Bẵng đi một thời gian, tôi không hay chị Tám lập gia đình. Chồng của chị là anh Tư Minh (em ruột anh Ba Gấm), Chánh Văn phòng Ban Tuyên huấn huyện Trần Văn Thời, người anh mà tôi sát cánh từ năm Mậu Thân 1968. Tôi trở lại Ban Tuyên huấn huyện sống chung với anh Tư Minh lần thứ hai vào đầu năm 1971, văn phòng tạm đóng tại nhà bác Tám Ngáo (bác gái) trên bờ trâm bầu giữa ruộng hậu kinh Ðòn Dong Ngọn giáp hậu Kinh Ngang. Tôi gặp lại chị Tám tại đây vào một buổi chiều tối. Chị mặc bộ đồ vải tơ trắng, tay chống cặp tó, tôi mới hay chị đang tật nguyền do chiến tranh và một phần cũng vì “sức mạnh” của tình yêu…

Trong năm 1970, một lần về quê chồng, chẳng may gặp giặc đồn Rạch Cui biệt kích vào, chị bị thương và được đưa ra Bệnh viện Cà Mau, chính tên bác sĩ Mỹ đã cưa 2 lần mất nguyên một chân trái của chị. Thời chiến, nhiều trường hợp như chị Tám, hễ bị thương chân đưa ra thành đều bị cưa sát xương đùi “đừng hòng hoạt động cho Việt cộng”, tàn phế suốt đời. Việc đi lại khó khăn, chị vẫn bằng mọi cách đến với anh, nhưng lần này không phải bằng trái tim an ủi, hạnh phúc đợi mong mà đó lại là lần sau cùng, một kỷ niệm buồn. “Thà một người khổ, chứ không thể khổ cả 2 người…”. Anh Tư dứt khoát như vậy!

Một người phụ nữ hết mực vì chồng đã không còn lành lặn, chưa vơi nỗi đau mất mát một phần thân thể, thì ập đến nỗi đau mất chồng. Bất hạnh, có đau đớn nào hơn cuộc đời chị Tám. Có lẽ chị không bao giờ quên được cái đêm chia tay đầy “oan nghiệt” ấy?

*

30 năm sau, tôi đi nhiều chặng về Kinh Cũ, tìm thăm anh Tư Hữu ở Quản Hảo - Cơi Tư. Anh đang giữ chiếc xáng giúp đứa cháu neo đậu nghỉ Tết. Tôi xuất hiện bất ngờ, anh Tư rất mừng. Anh làm mồi lăng xăng, rồi cầm chai nói: “Ðể tao lên bờ kiếm khúc rượu”. Sau 30 năm gặp lại, hai anh em ngồi lai rai với mồi cá chiên và hột vịt ốp la… Anh Tư giúp tôi quá giang xuồng gắn máy của một cán bộ huyện Trần Văn Thời, quê Khánh Hưng, về đến cầu Chữ Y, ghé lên nhà chị Tám Kiềng. Chị không ngờ gặp lại thằng em “biệt kích” là tôi, lại vào buổi xế trưa mùng 2 Tết Tân Tỵ 2001, chị Tám hỏi tôi: Em có muốn uống rượu không?

Chị Tám tâm sự cái lý do chị “đi bước nữa”: Anh Tư không thương, không lo được cho chị, thì chị tìm người khác, xem tốt hơn không? Người có lòng vị tha, chia sẻ chắc dễ cảm thông hơn là trách chị. Dù ai đi chăng nữa, đấy vẫn là tình người.

Với tình cảm của đứa em quê hương, dù ở đâu, tôi cũng vẫn nhớ chị Tám, bởi tôi hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của chị mà chẳng biết nói ra làm sao? Tôi nhớ câu “yêu là chết ở trong lòng một ít…”. Chị Tám bị tật nguyền, mất đi một nửa cuộc sống, một nửa phần đời… Và, chuyến vội vã tìm thăm chị Tám, tôi cảm xúc qua những dòng ký sự thơ:

TÌM CHỊ

Cầu Chữ Y rực nắng chiều xuân

Ba mươi năm, em tìm thăm chị

Thuở quê hương đầy bom đạn Mỹ

Chị “nợ duyên” với Tiểu đoàn U Minh.

Lý, Rắn, Thanh, Hoàng chiến đấu hy sinh

Ven sông Ðốc - trận “công đồn, đả viện”

Hồi ấy, chị - nhân viên phụ nữ huyện

Lội đẩy xuồng chuyển tử thi mùa khô…

Chị dành tình yêu qua thời mộng mơ

Chọn lang quân miệt Khánh Bình, Ông Bích

Về quê chồng, ngờ đâu đêm biệt kích

Lửa đạn quân thù cướp mất một chân

Lại còn nỗi đau dai dẳng, âm thầm

Chồng làm ngơ, chị buồn, không oán hận

Rồi chị có chồng, vượt lên số phận

Ðược làm mẹ hiền nuôi con lớn khôn…

Em cảm thương cuộc đời chị nhiều hơn

Gan dạ, buồn đau, đi qua cuộc chiến

Chị vui, dù đôi chân khập khiễng

Bước tiễn em qua cầu Chữ Y…

2001-2015

Nguyễn Minh

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.