ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 16-5-24 17:26:31
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chứng nhân của những ngày kháng Pháp ở Cà Mau

Báo Cà Mau Ðây là lần thứ 2 tôi gặp ông Nguyễn Phước Thẩm (tên gọi khác là Nguyễn Trí Thẩm hay Tư Thẩm), một trong những chứng nhân lịch sử hiếm hoi còn lại của cuộc kháng chiến chống Pháp tại Cà Mau. Ông Tư Thẩm quê gốc ở tại làng Tân Hưng (nay thuộc xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước), sinh ngày 14/7/1930. Ở tuổi 94 (theo tuổi mụ), ông Tư Thẩm trải lòng: “Với tôi, chuyện bây giờ có thể quên chớ những chuyện liên quan đến cách mạng thì tôi không thể nào quên được. Ðó là máu thịt rồi”.

Ở tuổi đại thọ, ông Tư Thẩm vẫn nhắc lại chuyện đời, chuyện kháng chiến khúc chiết, mạch lạc. Duy chỉ có căn bệnh khàn tiếng làm giọng ông hơi khó nghe: “Bận rồi, anh em ở Bảo tàng tỉnh Cà Mau có ghé thăm, đặt vấn đề về việc viết lại một số nội dung lịch sử tỉnh Cà Mau thời kháng Pháp, tôi nhận lời ngay vì thấy mình còn đủ sức lực, trí tuệ và đã hoàn thành công việc ấy. Tôi coi đó là công việc ý nghĩa lúc cuối đời dành cho quê hương Cà Mau”.

Ông Nguyễn Phước Thẩm, ở tuổi 94 vẫn hoàn thành công việc biên soạn tư liệu lịch sử liên quan đến các mốc thời gian, địa điểm cơ quan Tỉnh uỷ đứng chân hoạt động trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp ở Cà Mau.

Cuộc đời cách mạng của ông Tư Thẩm bắt đầu từ rất sớm theo bước chân hoạt động của thân phụ ông, ông Nguyễn Phước Hoạch. Ông Hoạch là cán bộ tham gia Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền tại Cà Mau. Sau khi Pháp trở lại, Mặt trận Tân Hưng kiên cường chống trả, ông Hoạch là người phụ trách Ban tiếp tế của mặt trận. Mặt trận Tân Hưng thất thế, ông Tư Thẩm theo cha mẹ di tản trên chiếc xuồng lợp mui về vùng căn cứ cách mạng ở Ðầm Dơi.

Theo lời ông Tư Thẩm kể, cha ông, ông Nguyễn Phước Hoạch sau đó đã nối lại đường dây hoạt động, về xã Phú Hưng nhận trách nhiệm là Phó chủ tịch Uỷ ban Hành chánh kháng chiến xã. Sau đó, Tỉnh uỷ điều động ông Hoạch nhận nhiệm vụ là Trưởng ty Canh nông, Phó ty lúc đó là đồng chí Trần Hợi. Vì hoạt động trong điều kiện khó khăn, ông Hoạch lâm bệnh ngặt nghèo, qua đời năm 1948.

Nối chí theo cha, ông Tư Thẩm sớm thoát ly theo cách mạng, tham gia công tác ở Ðoàn Tuyên truyền Dân Quân Chánh huyện Cà Mau, giữ vai trò là Thơ ký phụ trách tổ chức của Ban Thanh niên Cứu quốc. Vinh dự được kết nạp vào Ðảng Lao động Việt Nam tại Chi bộ Thanh niên Cứu quốc huyện Cà Mau (3/1/1948). Ngay sau đó, ông Tư Thẩm tham gia lớp tập huấn 75 ngày đào tạo cán bộ do Ty Thông tin mở. Giai đoạn này, ông Tư Thẩm vẫn nhớ: “Tôi và anh Nguyễn Tấn Thử (thân sinh nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) cùng sinh hoạt, học tập chung, có nhiều kỷ niệm đẹp thời hoa niên giàu lý tưởng. Tôi cũng được anh Thử nhận làm em kết nghĩa”.

Sau khi hoàn thành khoá học, với thành tích tốt, ông Tư Thẩm được điều động về Ty Thông tin, phụ trách văn phòng và công tác phát hành, lưu trữ tài liệu, sách báo. Nói về giai đoạn này, ông Tư Thẩm cung cấp nhiều tư liệu quý về công tác Tuyên - Văn - Giáo nói chung và hoạt động của lĩnh vực báo chí nói riêng. Thời điểm này, ta có các tờ báo chủ lực là: Tiếng súng kháng địch của Quân khu 9, Cứu quốc của Sở Thông tin Nam Bộ và tờ Chiến của Tỉnh uỷ Bạc Liêu. Sau này có thêm tờ Nhân dân miền Nam của Trung ương Cục xuất bản (năm 1950).

Ông Tư Thẩm hồi nhớ: “Với tờ báo Chiến của Tỉnh uỷ, hình thành khoảng năm 1947, có thời gian đóng ở kênh Bộ Ðôi, ấp Tân Hoà, xã Tân Thuận, huyện Cà Mau. Nội dung chủ yếu là tuyên truyền chủ trương, đường lối cách mạng, kháng chiến của ta. Phía trước cơ quan báo Chiến có đề “Cơ quan hội nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác tỉnh Bạc Liêu”. Nhà in của tỉnh khi ấy do đồng chí Trần Ngọc Hy phụ trách. Ông Tư Thẩm còn hết sức ngưỡng mộ ông Trần Ngọc Hy về biệt tài đặt các bài thơ ca, hò vè, có bài theo vần chữ T mấy trăm chữ.

Năm 1950, ông Tư Thẩm về Ban Tuyên huấn tỉnh Bạc Liêu, công tác với danh nghĩa Tổng Ðại lý báo Nhân dân miền Nam. Báo Nhân dân miền Nam do Trung ương Cục xuất bản, in tại Nhà in Trần Phú với số lượng phát hành lớn, về đến tận chi bộ đảng ở xã. Lúc này, công việc của ông Tư Thẩm là tiếp nhận, phát hành, lưu trữ toàn bộ sách, báo của Ðảng, trong đó có những tài liệu mật chỉ có các đồng chí cao cấp được tiếp cận. Theo ông Tư Thẩm, “lúc này, loại sách báo đặc biệt chỉ có các đồng chí Châu Văn Ðặng, Trần Văn Sớm và Võ Văn Kiệt được tiếp cận”. Ðồng thời, tổ chức các cuộc triển lãm sách, báo trong các cuộc hội nghị quan trọng của Tỉnh uỷ, Trung ương Cục để các đại biểu nghiên cứu.

Với chiếc ghe tam bản, 2 rương sách, báo lớn và đội quân xuồng ba lá, công tác phát hành sách, báo giúp ông Tư Thẩm có mặt khắp nơi ở chiến trường Cà Mau, gặp gỡ, quan hệ công tác từ cán bộ cao cấp cho đến các đồng chí ở xã. Thế nên những hiểu biết của ông về tình hình kháng chiến trong thời kháng Pháp ở Cà Mau là tin cậy với tư cách là người trong cuộc.

Bằng sự cẩn trọng, tỉ mỉ, ông Tư Thẩm cho biết: “Giai đoạn kháng Pháp, cơ quan Tỉnh uỷ có nhiều lần di dời để đứng chân hoạt động. Sau khi Pháp trở lại, Mặt trận Tân Hưng thất thế, cơ quan Tỉnh uỷ về đóng tại ấp Tân Hoà, xã Tân Thuận, huyện Cà Mau. Khi này, tại ngã ba Ðầu Trâu có trạm gác xét duyệt người đến cơ quan Tỉnh uỷ liên hệ làm việc. Ông Lê Khắc Xương là Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban Hành chánh kháng chiến tỉnh; ông Dương Thuần Chương là Phó bí thư kiêm Trưởng ban Tuyên huấn; ông Trần Hợi là Uỷ viên. Cơ quan Tỉnh uỷ, Uỷ ban Hành chánh kháng chiến tỉnh, Ty Tài chánh, Ty Canh nông, cơ sở in bạc Cụ Hồ, cơ quan báo Chiến đều đóng ở đây.

Năm 1947, cơ quan Tỉnh uỷ dời về địa bàn huyện Cái Nước, đóng ở rạch Ông Phụng cùng nhiều đơn vị khác. Cuối năm 1950, cơ quan Tỉnh uỷ về đứng chân tại huyện Trần Văn Thời, tại Rạch Ráng, các đơn vị khác đóng ven theo tuyến sông Ông Ðốc, đầm Thị Tường. Cuối năm 1952, cơ quan Tỉnh uỷ về đứng chân hoạt động tại 2 xã Phú Mỹ và Hưng Mỹ. Sau giai đoạn này, tôi được phân công nhiệm vụ khác”.

Trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp tại Cà Mau, ông Tư Thẩm có điều kiện bao quát, nắm bắt tình hình, được liên hệ công tác với các đồng chí, cơ quan đầu não kháng chiến của Tỉnh uỷ và cơ sở. Việc ông Tư Thẩm tiếc là: “Tuổi cao, sức yếu, nhiều chuyện muốn nhắc, muốn kể nhưng không còn đầy đủ, chi tiết nữa. Chỉ biết một điều là có Bác, có Ðảng, quê hương Cà Mau anh hùng đã đồng lòng, chung sức, sẵn sàng hy sinh tất cả để đánh đuổi giặc thù”.

Một phần nội dung bản thảo của ông Nguyễn Phước Thẩm để cung cấp thêm tư liệu về thời kỳ đầu kháng Pháp tại tỉnh Cà Mau

Cuộc đời ông Tư Thẩm qua nhiều thăng trầm, Pháp thất bại, thời điểm tập kết 200 ngày ở Cà Mau, vợ chồng ông Tư Thẩm được phân công ở lại để tiếp tục hoạt động. Khi Mỹ - Diệm tràn vào, những người hoạt động kháng chiến 9 năm như ông Tư Thẩm bị bắt bớ, tra tấn dã man. Riêng ông Tư Thẩm bị Mỹ - Diệm bắt đến 2 lần, có lúc tưởng cái chết cận kề, bí bách ông phải lên Sài Gòn để hành nghề y tá tư. Suốt thời kháng chiến chống Mỹ, ông Tư Thẩm vẫn mong ngóng kết nối với tổ chức, hy vọng được sát cánh cùng đồng chí, đồng đội ra bưng biền kháng chiến, nhưng rồi, vì nhiều nguyên do ông vẫn bám thành.

Chính ông Tư Thẩm là người đứng ra thành lập Nghiệp đoàn Y tá tư tại trung tâm đầu não chế độ cũ ở Sài Gòn, với hàng ngàn hội viên, phần khá đông trong số ấy là người hoạt động trong chiến khu thời kháng Pháp trải dài từ Mũi Cà Mau đến sông Bến Hải. Cũng trong thời gian này, Nghiệp đoàn Y tá tư, mà ông Tư Thẩm với tư cách là người sáng lập, đã ủng hộ thuốc men, máy móc, y cụ vào vùng căn cứ kháng chiến, hướng lòng mình về cách mạng. Ông Tư Thẩm, bằng sức ảnh hưởng của mình, cũng tổ chức được nhiều đợt cứu trợ lũ lụt cho đồng bào miền Trung khi ấy.

Với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, ông Tư Thẩm đã rơi vào tầm ngắm với bản lý lịch "đen ngòm là cộng sản nòi”, là đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, có tội dung dưỡng cho VC (Việt cộng - PV) nằm vùng trong nội thành. Tình thế cấp bách, ông bỏ lại tất cả để về vùng Phan Rang, Phan Thiết đi vác cây mướn. Khi chiến thắng cận kề, ông về lại nội thành Sài Gòn góp phần nhiệt thành cho công tác tiếp quản của cách mạng.

Sau giải phóng, ông Tư Thẩm về Cà Mau làm công tác ở Ðài Truyền thanh Duyên Hải (sau đó đổi là Ngọc Hiển), rồi theo yêu cầu của tổ chức, trở lại TP Hồ Chí Minh để góp phần bóc gỡ các cơ sở, đường dây, kho tàng, đối tượng mà chế độ cũ và Mỹ còn cài cắm lại để chống phá cách mạng. Tiếp đó, ông về Ðầm Dơi làm công tác thương nghiệp và nghỉ hưu. Nói về cuộc đời mình, trong lời tâm sự, ông Tư Thẩm trải lòng: “Ngẫm lại, ở tuổi này, tôi không có gì để nuối tiếc nữa. Mình góp được chút sức cho sự nghiệp cách mạng, cho quê hương, đất nước thì đã thoả nguyện rồi”./.

 

Phạm Hải Nguyên

 

Vinh quang bất tử

Mỗi câu chuyện từ những nhân chứng đi ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đều là những trang sử sống quý giá, sinh động, mà may mắn thay, hậu thế chúng tôi, những người không biết đến bom đạn chiến tranh còn có thể nghiêng mình chiêm ngưỡng.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần II: Diễn biến, kết quả của chiến dịch

Sau khi công tác chuẩn bị hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra thành ba đợt trong gần hai tháng. Với địa hình hiểm trở, việc kéo pháo vào tập trung tại trận địa đã vô cùng khó khăn.Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần III: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần I: Bối cảnh lịch sử, âm mưu của thực dân Pháp và sự chỉ đạo chiến lược của ta

70 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ (07.5.1954 - 07.5.2024) là chiến thắng vĩ đại đã ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX. Đây là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử... Ý nghĩa, tầm vóc, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bản anh hùng ca bất diệt của thời đại Hồ Chí Minh

Đúng ngày này 70 năm trước, bộ đội ta đã nổ những phát súng đầu tiên mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến công tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp mà ngay cả trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ II cũng không có tập đoàn cứ điểm nào mạnh bằng. Trải qua 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non (thơ Tố Hữu), bộ đội Việt Nam anh hùng đã vượt lên bao mưa bom, bão đạn và cắm lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Bác Hồ trao trên nóc hầm Đờ Cát, vào giữa tim con nhím Điện Biên Phủ, kết liễu số phận của nó.

Ðong đầy ký ức Ðiện Biên

Chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. 70 năm trôi qua, những người lính Bộ đội Cụ Hồ, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến từng tham gia Chiến dịch Ðiện Biên Phủ luôn tự hào về những năm tháng gian khổ nhưng đầy oanh liệt ấy.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, thắng lợi vĩ đại của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Cách đây vừa tròn 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.

Những năm tháng mãi trong tim...

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, với quyết định mang tầm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng, những chuyến tàu năm 1954 đã đưa nhiều người con miền Nam tập kết ra Bắc tiếp tục học tập, nhằm đào tạo lực lượng cán bộ cho sự nghiệp cách mạng lâu dài của Ðảng. Trong số đó, có những người con Cà Mau. Ðến nay, dù đã 7 thập kỷ trôi qua, nhưng họ vẫn nhớ như in cái ngày lịch sử ấy.

Vẹn nguyên giá trị ngày toàn thắng

49 năm, ngót nửa thế kỷ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, với tầm vóc lịch sử đã được đúc kết: “Thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta, một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (Báo cáo chính trị tại Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ IV của Ðảng).

Ðội quân kiến vàng

Thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một số địa phương ở miền Nam, như Bến Tre, sáng tạo cách đánh giặc bằng hầm chông kết hợp ong vò vẽ, làm cho kẻ địch bao phen bạt vía... Ở Cà Mau, lại có loại vũ khí lợi hại chẳng kém ong vò vẽ, khiến quân nguỵ bị một phen điếng hồn, bỏ chạy, đó là “đội quân kiến vàng”, không phải nuôi và cũng không huấn luyện gì.