Vỉa hè, vốn là nơi dành cho khách bộ hành, nhưng khi đi bộ dọc theo những con đường, không hiếm lần phải cau mày, nhăn trán khi phải “đối phó” với những hàng quán, bãi giữ xe, những gánh hàng rong, xe đẩy… thi nhau lấn chiếm lòng lề đường và dần trở thành “một phần tất yếu của cuộc sống”, nhất là đối với những đô thị lớn.
“Anh cứ ngỡ đầu đường thương xó chợ…”(Bùi Giáng)
Vỉa hè, vốn là nơi dành cho khách bộ hành, nhưng khi đi bộ dọc theo những con đường, không hiếm lần phải cau mày, nhăn trán khi phải “đối phó” với những hàng quán, bãi giữ xe, những gánh hàng rong, xe đẩy… thi nhau lấn chiếm lòng lề đường và dần trở thành “một phần tất yếu của cuộc sống”, nhất là đối với những đô thị lớn.
Nói phải tội, ngay cả khi chính quyền khá quyết liệt dẹp bỏ tình trạng lòng lề đường thì chắc cũng khó lòng mà dẹp bỏ được cái tâm thức và thói quen vốn ăn sâu vào nếp sinh hoạt và suy nghĩ của người Việt: sự kết nối cộng đồng trong những không gian chung - trước có cây đa, giếng nước, mái đình…, giờ có lề đường, vỉa hè, quán cóc… Mà nơi đó, từ người nghèo rớt mồng tơi đến “triệu phú đô-la” đều có thể gặp nhau, lướt qua nhau hoặc ngồi cạnh nhau, nhấm nháp ly cà phê, ăn gói xôi, gặm ổ bánh mì, thưởng thức trái bắp nướng, củ khoai luộc… mà không phải (thấy) tủi thân hoặc (có thể) lên mặt về thân phận, địa vị xã hội của mình. Và nơi đó, dường như thuộc về tất cả mọi người mà lại không thuộc về ai, nên an nhiên, bao dung trước tất cả những gì thuộc về cuộc sống vốn có.
Có lẽ chính vì đặc tính đó, những vỉa hè là nơi chứng nhân cũng như là nơi mưu sinh cho biết bao phận người, bất kể là kẻ tha phương hay người bản xứ. Ở khắp mọi miền đất nước, không khó để tìm ra được những thúng xôi, những quán cà phê cóc vỉa hè, những gánh bún riêu, xe hủ tiếu đẩy… bày bán trên vỉa hè, nơi góc đường nào đó là “cần câu cơm” nuôi sống cả một gia đình. Và không hiếm những thương vụ trị giá hàng ngàn tỷ được nhen nhóm, luận thảo bởi những thương nhân triệu đô làm thật, ăn thật, sống thật với nếp quen thích ngồi quán cóc nơi vỉa hè; hay gần đây nhất, những đại sứ Âu - Mỹ tại Việt Nam nhân dịp xuân về đã rủ nhau thưởng thức món phở nóng, uống ly trà đậm nơi quán vỉa hè như đã hoà nhịp cùng nếp sinh hoạt nơi xứ Việt.
Gọi là nếp sinh hoạt bởi khi đi ngang qua bất cứ con phố nào, chỉ cần nhìn sơ qua vỉa hè là có thể đoán được nếp sống của cư dân nơi đó giàu, nghèo thế nào, xa cách hay gần gũi ra sao… bởi có nơi gọi là vỉa hè nhưng được lát gạch bóng loáng, sạch tinh tươm bởi có đội ngũ bảo vệ hoặc lao công luôn túc trực và thường có những cửa hiệu lớn, sáng ánh đèn với những món hàng sau cửa kính đắt đến phỏng tay; và cũng có những vỉa hè nơi có những mẹt, những gánh bán những thứ vặt vãnh, rẻ tiền như mớ kim chỉ, vài bịch ớt khô, tiêu sọ, vài trái lê ki ma, bình bát… vậy mà vẫn duy trì người bán, kẻ mua từ năm này qua tháng khác; và có cả những vỉa hè nơi tìm đến cho những người mệt mỏi ngả lưng tìm cho mình giấc ngủ không giường, chiếu, không nhà, không cửa… Thế nên, có những bà dì, ông cậu, người thím nọ… vào mỗi đêm trước giờ đóng cửa đi ngủ, luôn cẩn thận quay mái hiên rộng thêm, lau sạch bậc cửa trước hiên nhà… phòng khi có người ngủ nhờ trước vỉa hè.
Lúc sinh thời, thi sĩ Bùi Giáng thường lang thang ở đầu đường, xó chợ với trạng thái nửa như ngẩn ngơ, nửa như tỉnh táo và thường xuất khẩu thành thơ tặng rất nhiều người. Với tâm trí ngẩn ngơ là vậy nhưng hiếm khi ông bị đói rét bao giờ bởi luôn được những người biết (lẫn không biết) mời cơm, mời nước miễn phí. Ông cảm tác ra hai câu thơ “Anh cứ ngỡ đầu đường thương xó chợ/Ai ngờ đầu đường xó chợ cũng thương nhau…” như là một minh chứng cho tính bao dung, tình cảm của những nơi “đầu đường, xó chợ” với những con người tạo nên tinh thần ấy.
Ðến đầu đường, xó chợ còn thương nhau, thì giữa người với người làm sao ghét nhau cho đặng?!./.
Ðoàn Ngọc