Với thế mạnh của một nước nông nghiệp, những năm qua nông nghiệp đã có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, sự đầu tư cho nông nghiệp vẫn còn hạn chế và chưa khai thác hết các tiềm năng, lợi thế vốn có. Qua nghiên cứu phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2014 và phương án sử dụng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014 - 2016 cho thấy, việc đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần tái cơ cấu nông nghiệp và mở ra nhiều cơ hội cho nông nghiệp phát triển phù hợp với tình hình mới.
Tăng cường đầu tư
Có thể nói, tăng cường đầu tư ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ cho nông nghiệp là giải pháp cần làm hiện nay. Bởi một trong những thách thức hiện nay là đầu tư cho nông nghiệp còn rất hạn chế. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vào lĩnh vực nông, lâm, thủy sản giảm dần qua các năm: 13,8% vào năm 2000; 7,5% năm 2005; 6,2% năm 2010; và 5,2% năm 2012.
![]() |
* Nông dân huyện Hòa Bình thu hoạch lúa. * Chế biến tôm xuất khẩu tại TP. Bạc Liêu. Ảnh: Kim Trung |
Ưu tiên tái cấu trúc nông nghiệp
Mặc dù trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, kinh tế nước ta đã có sự phát triển tương đối khá, cơ cấu của nền kinh tế đã có sự chuyển dịch dần theo hướng tiến bộ (tỷ trọng của khu vực nông nghiệp từ 38,06% năm 1986 giảm xuống còn 19,67% năm 2012; tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 28,88% tăng lên 38,63%; và tỷ trọng của khu vực dịch vụ từ 33,06% tăng lên 41,70%). Song, đến nay, sản xuất nông nghiệp và khu vực nông thôn vẫn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Cụ thể như năm 2012, dân số sinh sống ở khu vực nông thôn nước ta vẫn còn chiếm 68% (năm 1986 con số này là 80,7% - giảm khá chậm); lao động trong khu vực nông thôn vẫn còn chiếm 60% lực lượng lao động của toàn xã hội, trong đó lao động làm nông nghiệp (nghĩa rộng là gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp) vẫn còn chiếm gần 48% (năm 1986 khu vực này chiếm 72,6%). Những số liệu trên cho thấy, trong điều kiện của nước ta hiện nay, sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng) vẫn là ngành sản xuất chủ yếu giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống cho người dân của nước ta.
Thời gian qua, tuy các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chiếm khoảng 20% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước (năm 2012 đạt 27,5 tỷ USD, 10 tháng của năm 2013 đạt 22,73 tỷ USD), song nó lại làm cho Việt Nam trở thành nổi tiếng, thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu của thế giới. Nhiều mặt hàng có số lượng xuất khẩu đứng từ hạng 1 đến hạng 3 của thế giới như: hạt tiêu, gạo, cao su, cà phê, hạt điều, cá tra và cá ba sa… Thật ra, giá trị xuất khẩu do nông nghiệp đem lại còn cao hơn, vì nhiều mặt hàng công nghiệp xuất khẩu phải lấy nguyên liệu từ nông nghiệp.
Mặt khác, cũng phải thấy rằng, giá trị xuất khẩu của nông nghiệp là giá trị thật, mang lại nguồn thu thật cho đất nước. Có những ngành tuy giá trị xuất khẩu rất lớn - hàng chục tỷ USD, song giá trị thật mang lại cho đất nước không nhiều, chỉ khoảng 10 - 15% là cùng. Đơn cử như ngành điện tử, máy tính, linh kiện, da giày chẳng hạn, vì các ngành này chỉ gia công cho nước ngoài. Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI cũng vậy, ta chỉ được phần thuế và lương công nhân, phần còn lại là của đối tác.
Nông nghiệp là ngành bảo đảm an ninh lương thực của quốc gia. Chỉ khi nào an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm thì đất nước mới có thể yên tâm giải quyết các vấn đề khác. Thực tiễn nông nghiệp nói chung, an ninh lương thực nói riêng, trong hơn 20 năm qua đã 4 lần cứu kinh tế - xã hội nước ta thoát khỏi các cơn khủng hoảng lớn xảy ra. Đó là: khủng hoảng kinh tế giai đoạn đầu những năm 1990; khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998; khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới năm 2008 - 2009; và khủng hoảng, suy thoái kinh tế thế giới mấy năm vừa qua.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học - công nghệ (KH-CN), đặc biệt là những tiến bộ của công nghệ sinh học, đã làm cho sản xuất nông nghiệp có những thay đổi hết sức lớn lao. Sản xuất nông nghiệp dần trở thành lĩnh vực vừa đầu tư có hiệu quả cao, vừa tạo ra môi trường sống ngày càng tốt đẹp cho con người. Sự quay trở lại đầu tư cho nông nghiệp, tái cấu trúc lại nền nông nghiệp theo hướng xanh và hiệu quả của một số quốc gia trong thời gian gần đây đã cho thấy điều đó.
Từ những phân tích trên cho thấy: ở nước ta, tái cấu trúc lại nền kinh tế, trước hết cần ưu tiên tái cấu trúc sản xuất nông nghiệp và khu vực nông thôn. Bộ mặt của 68% dân cư của đất nước, 60% lực lượng lao động của toàn xã hội không được thay đổi, thì về cơ bản, bộ mặt của đất nước cũng không thể thay đổi được.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
Tái cấu trúc nông nghiệp theo hướng nào là vấn đề cần phải có sự nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, trước mắt, tôi cho rằng cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng đầu tư cho nông nghiệp, tối thiểu cũng phải tương ứng với đóng góp của nông nghiệp vào GDP. Bao gồm: đầu tư cơ sở hạ tầng; chỉnh trang, xây dựng đồng ruộng; thu hút đầu tư vào nông nghiệp; chuyển đổi các hệ thống cây trồng và vật nuôi cho phù hợp với điều kiện của từng vùng với sự biến đổi của khí hậu và đáp ứng nhu cầu thị trường. Phải thực hiện thật sự hiệu quả, không làm theo cảm tính hoặc theo phong trào; phải thay đổi lại mô hình tổ chức sản xuất của nông nghiệp cho phù hợp với sự phát triển (sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu quy hoạch, thiếu tổ chức, không còn động lực lớn thúc đẩy nông nghiệp phát triển nữa); đưa nhanh các tiến bộ mới về KH-CN vào sản xuất nông nghiệp, nhất là các tiến bộ về công nghệ sinh học, tưới tiêu, cơ giới hóa, điện khí hóa, về tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh; nghiên cứu đổi mới hệ thống chính sách vĩ mô đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân cho phù hợp với tình hình mới; đặc biệt là chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách KH-CN và chính sách an sinh xã hội…
Tóm lại, chi phí đầu tư tái cơ cấu nông nghiệp rẻ so với các ngành khác, đó là: làm một lần, lợi nhiều năm.
TS. Huỳnh Minh Hoàng
Giám đốc Sở KH-CN