(CMO) Là một tiến sĩ... viết văn nên không lạ khi những bài tản văn trong tập sách “Chúng ta sẽ nói gì khi gặp lại nhau…?” của Nguyễn Thị Hậu có những thông tin vừa chuyên sâu mà lại vừa bao quát qua giọng văn nhẹ nhàng và có tính thuyết phục. Lợi thế từ công việc nghiên cứu và xê dịch nhiều nên góc nhìn của nữ nhà văn cũng có chút khác biệt và phong phú hơn, nhất là những khía cạnh về văn hoá và đời sống xã hội.
Do có thể, khi nhìn những cảnh chen lấn, giẫm đạp trong lễ hội, không hiếm người chỉ biết lắc đầu ngán ngẩm (dù đôi lúc họ chính là một trong những người tạo nên sự chen lấn, giẫm đạp đó) rồi đổ vấy cho văn hoá… lùn, cho sự thiếu ý thức nhưng thực ra, “gọi là “hội làng” nhưng phần lớn là người từ nơi khác đến tham gia, không phải ai cũng hiểu ý nghĩa và những hành vi mang tính tượng trưng của lễ hội xưa. Ngoài ra còn phải nói đến tâm lý thực dụng, thậm chí có phần tham lam của nhiều người dự lễ hội. Biết rằng “lộc” không đáng gì nhưng “kém miếng giữa làng” thì khó chịu, “sự may mắn” bị đánh đồng với “cái lợi” cho cá nhân nên quyết cướp giật cho bằng được, không được thì xô xát, chửi mắng đánh nhau. Do đó lễ hội có trò “cướp, giết” sẽ không thể kiểm soát được do tâm lý đám đông dễ làm lây lan hành vi vô văn hoá" (Lễ hội và tính nhân văn).
Hay như những nét văn hoá truyền thống dần dần bị thay thế bằng các “truyền thống mới” thì đó cũng là một lẽ tất nhiên, là một phần của “quy luật” của nhiều hiện tượng văn hoá (Tết nay đã khác Tết xưa); hoặc những ai vẫn cứ có suy nghĩ rằng "“Nam Bộ được thiên nhiên ưu đãi, người Nam Bộ làm chơi ăn thiệt” là một lối mòn trong suy nghĩ và nhận thức. Cần hiểu rằng người Nam Bộ đã vượt qua biết bao khó khăn gian nan để làm nên một vùng đất đai trù phú. Có chăng chỉ là người Nam Bộ không hay than khó kể khổ, bởi vì ai cũng như mình, than thở có ích gì, hãy giúp nhau làm cho được việc… Việc đã làm xong thì coi những khó khăn đã qua là “chuyện nhỏ” chứ đâu phải làm ăn dễ dàng như chơi?" (Sài Gòn - Việc thiện từ tâm).
Chung quy lại, văn hoá chính là những nét hành xử mang tính cộng đồng, trong không gian chung với tinh thần bồi đắp, dựng xây, hướng đến cái chân - thiện- mỹ chứ không phải là đạp đổ, phá hoại hoặc khinh thường những nét văn hoá, lối sống khác với mình. Sống như “tinh thần của con cháu Lục Văn Tiên” thì đó chính là “Giàu sang không quan cách mà nghèo túng không hạ mình, cũng không ganh ghét đố kỵ vì cho rằng trời sẽ cho nếu mình cố gắng làm ăn. Tuy nhiên, “nhìn lên không bằng ai nhưng nhìn xuống mình hơn nhiều người”, người Nam Bộ luôn hào phóng với đồng bào, không phải vì điều kiện dễ dãi “làm chơi ăn thiệt” mà vì thấu hiểu rằng người khó cũng như nghèo, vì biết người được giúp cũng sẽ giúp người khác như vậy, bởi đó là Đạo làm người" (Còn không tinh thần Lục Vân Tiên).
Sống trọn với đạo làm người và sống với một tâm thế mở, để hiểu cuộc sống đô thị vội vã đó nhưng cũng tình cảm đó, “có khi trong một tổ dân phố hay cùng một chung cư người ta sống cạnh nhau hàng năm trời “lạnh lùng” không trò chuyện, thậm chí không biết nhiều về nhau. Nhưng khi hữu sự thì mọi người đều chung tay giải quyết. Đi trên đường phố thỉnh thoảng nghe những câu nhắc nhở “chân chống kìa anh ơi”, “tắt đèn xi nhan chị ơi”, “cháu nhỏ rớt dép kìa”, “coi chừng dây thun quấn bánh xe”… Người nhắc phóng đi không đợi lời cám ơn, người được nhắc giật mình xem lại và vội nói với theo câu cám ơn. Thấy người với người đâu có dửng dưng"(Tình nghĩa Sài Gòn); để thấy trân quý hơn những mảng xanh lành nơi góc phố, những buổi chiều thong thả đạp xe, các con hẻm, đường phố quen lạ với khuôn mặt, dáng người tất bật lướt qua, đủ nhanh để hoà cùng với dòng người xuôi ngược, đủ chậm để trao nhau một nụ cười, một ánh nhìn… chợt thấy cuộc sống có tình, có đủ trọn vẹn để yêu thương, để sống,… thế đã là quá đủ!
Nguyễn Thị Hậu