(CMO) Thời bao cấp được xem là giai đoạn khó khăn, thiếu thốn nhưng đối với cải lương thì ngược lại, đây có lẽ là thời kỳ hoàng kim kể từ sau năm 1975.
Hằng năm, cứ đến mùa khô, các đoàn cải lương lên đường xuôi ngược các địa phương trong tỉnh rồi đến các tỉnh miền Tây, thậm chí cả miền Trung, miền Bắc lưu diễn, mà các điểm trình diễn thường là sân bãi.
Sau ngày giải phóng, tỉnh Minh Hải có rất nhiều đoàn cải lương, nhưng tôi chỉ biết các đoàn Cao Văn Lầu, Hương Tràm, Đất Mũi, Viên An.
Minh hoạ: MT |
Hồi nhỏ, khi còn ở quê, mùa khô đến tôi thường đi xem các đoàn cải lương đến hát sân bãi, lúc ở Nhị Nguyệt, khi ở Chà Là. Các đoàn cải lương đến lưu diễn thường là khoảng thời gian từ Tết trở về sau, khi vụ mùa đã kết thúc. Lúc này là thời điểm nông nhàn của bà con trong quê. Mỗi lần có gánh hát đến, không khí rất vui. Khi trời vừa sập tối, từng nhóm năm ba người kéo nhau đi xem cải lương, vừa đi vừa chuyện trò rôm rả. Dưới sông thì xuồng chèo, xuồng bơi tí tách xé nước lao đi hết sức khí thế.
Đoàn cải lương thường xuyên đến biểu diễn ở quê tôi là Đoàn Viên An. Đoàn này thường hát các vở tuồng cổ trang, diễn viên không nổi tiếng như mấy đoàn lớn. Đi xem cải lương ở quê có nhiều chuyện vui nhưng cũng rất vất vả, vì phải lội bộ từ nhà đến sân bãi khoảng năm ba cây số. Có người còn đi xa hơn, cả chục cây. Các đoàn cải lương đi lưu diễn rất sợ nạn đánh lộn, trong đó có cả bộ đội và thương binh. Vì thời điểm này chiến tranh biên giới đang diễn ra, địa phương nào cũng có bộ đội và thương binh về. Hầu hết bộ đội và thương binh vào cửa không tốn tiền, nhưng ngặt nỗi mỗi anh vào cửa thường dẫn theo năm bảy người, làm cho soát vé xót ruột nên thường xảy ra cự cãi.
Cải lương đến lưu diễn tạo nên không khí hội hè ở làng quê, nhưng lại là nỗi lo của một số gia đình có con gái đến tuổi cặp kê. Bởi hầu như lần nào gánh hát đến rồi đi là trong xóm tôi có một vài cặp trốn nhà ra đi không dấu vết. Người nhà phở lên đi tìm, nhưng chẳng thấy đâu. Thế rồi thời gian sau lại dắt díu nhau về làm đám thú phạt. Nguyên nhân phổ biến là do hai trẻ yêu nhau nhưng không được gia đình đồng ý và gánh hát đến là điều kiện “cần và đủ” để đôi trai gái được bên nhau. Khi trở về, vì gạo đã nấu thành cơm và vì sĩ diện nên gia đình hai bên đành phải chấp nhận dâu rễ. Lễ thú phạt diễn ra đơn giản với họ hàng thân thích đôi bên, sính lễ của đàng trai cũng hết sức giản đơn với cặp vịt và đôi bông. Hoàn cảnh này cũng giống trong ca dao từ xưa:
"Người ta giàu thì đầu heo nọng thịt
Tụi mình nghèo thì cặp vịt, đôi bông".
Cùng với đoàn Viên An còn có một vài đoàn khác đến lưu diễn tại quê tôi. Có những đoàn bầu gánh, nghệ sĩ, nhạc công, soát vé, đạo cụ, cảnh trí chỉ vỏn vẹn một ghe. Đây là những “gánh bồ tèo” hát một vài đêm hoặc đoàn cải lương “sóng giang”, tức hát một đêm rồi sáng giong. Các nghệ sĩ của những đoàn hát này ban đêm là vua chúa, quan quyền, tướng tá, nhưng ngày hôm sau đã trở thành thường dân thứ thiệt, đi mua ve chai lông vịt dạo trong xóm. Cứ thế hết điểm này tới điểm khác, họ đem lời ca tiếng hát mua vui cho những người dân vùng sâu, vùng xa qua từng đêm diễn.
Ngoài Đoàn Cải lương Viên An, tôi còn được xem các đoàn Hương Tràm, Cao Văn Lầu, Đất Mũi, nhưng thường xuyên và thích nhất là Đoàn Cải lương Hương Tràm. Đoàn Cải lương Hương Tràm thời kỳ này do Đạo diễn Huỳnh Hảnh làm Trưởng đoàn, với dàn diễn viên hùng hậu gồm các “Minh” như: Minh Đương, Minh Chiến, Minh Sang, Minh Hoàng, Minh Thống…; đào nữ thì có Thanh Thảo, Loan Thảo, Lệ Minh… và hề Văn.
Đoàn Cải lương Hương Tràm mỗi năm đều dàn dựng tuồng mới và rất chịu đầu tư cho cảnh trí, trang phục. Có những cảnh mà đến bây giờ tôi vẫn còn ấn tượng, đó là cảnh thác nước trong vở "Nhớ mùa trăng xưa". Thác được làm bằng những sợi dây có gắn nhiều miếng ni-lông và quay theo hai trục quay, khi quay ánh sáng đèn chiếu vào nhìn như thác nước thật. Lúc đó xem mà không hiểu vì sao người ta tạo ra được cái thác nước như vậy trên sân khấu.
Hay như trong tuồng "Nụ cười Tây hậu" có cảnh con quạ từ trên cao sà xuống lấy cắp bức ảnh vẽ chân dung vợ của anh nông dân. Đây là một trong những điểm nhấn của vở diễn này. Khi một người hoá trang thành con quạ và được kéo bằng dây cáp bay là đà trên sân khấu, thì khán giả vô cùng thích thú, đứng lên xem như muốn tràn lên sân khấu. Trong thời điểm đó, ít có đoàn nào thực hiện những cảnh diễn như thế.
Có rất nhiều tuồng của Đoàn Cải lương Hương Tràm được khánh giả yêu thích. Tuồng cổ trang thì có "Nụ cười Tây hậu", "Nhớ mùa trăng xưa", "Hoàng hậu Ba Tư"…; tuồng tâm lý xã hội thì có "Phi vụ cuối cùng", "Giọt máu oan cừu", "Bên dòng Nhị Nguyệt"… Có những vở đoàn diễn đi diễn lại rất nhiều suất nhưng vẫn thu hút đông đảo khán giả đến xem. Tại thị xã Cà Mau, những điểm mà Đoàn Cải lương Hương Tràm thường đến biểu diễn là Rạp Huê Tinh, Sân vận động (Trung tâm Mua sắm Nguyễn Kim ngày nay), sân Bưu Điện (Trung tâm Văn hoá Hùng Vương hiện nay).
Vào giữa thập niên 80, sau khi đoạt Huy chương Vàng tại hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc với vở diễn "Trước bình minh", thanh thế của Đoàn Cải lương Hương Tràm ngày càng lớn, sự yêu mến của khán giả theo đó cũng tăng lên, kể cả trong và ngoài tỉnh.
Từ một địa phương có đến năm bảy đoàn hoạt động trong cùng thời điểm, vậy mà khi cải lương thoái trào, Minh Hải chỉ còn lại đoàn Cao Văn Lầu và Hương Tràm. Sau khi tách tỉnh, đoàn Cao Văn Lầu về tỉnh Bạc Liêu, đoàn Hương Tràm thuộc tỉnh Cà Mau. Thế nhưng, suốt từ đó đến nay, hai đoàn này chỉ hoạt động cầm chừng, để duy trì loại hình nghệ thuật một thời làm say mê biết bao người hâm mộ. Nghĩ về cải lương thời ấy, chẳng biết "bao giờ cho đến tháng Mười"…./.
Hoàng Hải