ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 24-7-25 12:10:03
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ðoàn Phương Ðông - Vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu

Báo Cà Mau Trước tình hình Mỹ - Diệm ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam với nhiều thủ đoạn dã man, tàn bạo, gây bao đau thương tang tóc cho quê nhà, nhiều cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc lòng sôi sục căm thù, quyết tâm tham gia cùng các đoàn trở về quê hương chiến đấu, trong đó có Ðoàn Phương Ðông với quân số lên đến gần 600 người.

Hành trình về nam chiến đấu

Lực lượng quân sự khi tập kết ra Bắc, một số được đi học văn hoá, đào tạo cán bộ ở các trường trong và ngoài quân đội, số còn lại tập trung huấn luyện, xây dựng quân đội chính quy, lao động sản xuất... góp phần cùng miền Bắc xây dựng hậu phương vững mạnh.

Với ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị thành lập binh đoàn mở đường Trường Sơn (Ðoàn 559) để chi viện cho chiến trường miền Nam. Ðoàn có nhiệm vụ mở con đường mòn gùi thồ, hành quân bộ (về sau phát triển thêm đường cơ giới), đó chính là con đường Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, con đường giao thông huyết mạch góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Bộ đội vượt Trường Sơn. Ảnh tư liệu

Cuối năm 1959, khi đường Trường Sơn được khai thông, Ðảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng bắt đầu chỉ đạo thành lập và đưa các đoàn cán bộ quân sự là con em miền Nam tập kết ra Bắc về tăng cường cho cách mạng miền Nam. Ban đầu là những đoàn nhỏ, số lượng vài chục đến vài trăm người. Ngày 7/5/1961, đoàn cán bộ quân sự có số lượng lớn đầu tiên với gần 600 người mang tên Ðoàn Phương Ðông đã lên đường về Nam chiến đấu.

Ðoàn Phương Ðông lên đường vào Nam được biên chế thành khung của các cơ quan quân sự Miền; khung các đơn vị binh chủng pháo binh, đặc công, công binh, thông tin...; khung các Bộ Tư lệnh Quân khu 8, Quân khu 9 và khung các trung đoàn chủ lực Miền. Từ đó góp phần xây dựng lực lượng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại và ngày càng lớn mạnh, lập nên nhiều chiến công lớn, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu cùng với lý tưởng cách mạng và tiếng gọi quê hương, những người lính tập kết trở về đã chịu đựng biết bao gian khổ, hiểm nguy. Kết thúc chiến tranh, trong số cán bộ quân sự Ðoàn Phương Ðông ngày nào, có 57 người hy sinh; 5 Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân; 11 người mang hàm cấp tướng, đảm nhận các chức vụ từ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đến các Tư lệnh phó Tư lệnh Quân khu 8 và Quân khu 9; hàng trăm người cấp tá, cấp uý, hàng chục người trở thành cán bộ chủ chốt trong các cơ quan dân chính đảng ở các địa phương đồng bằng sông Cửu Long.

Và câu chuyện tình yêu người lính Phương Đông

Qua giới thiệu, một ngày tháng 9, tôi đến ấp Tân Bằng, xã Tân Bằng, huyện Thới Bình, gặp bà Trần Thị Hoà, đầu mối chính của bài viết.

Trước mặt tôi là 2 quyển sách có tên: “Những kỷ niệm sâu sắc của Ðoàn Phương Ðông miền Trung và Tây Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Bộ Tư lệnh Quân khu 9 và “Những truyện ngắn thông tin liên lạc Quân khu 9 - 30 năm kháng chiến” của Ban Liên lạc Cựu chiến binh Thông tin Quân khu 9. Kẹp trong quyển sách là lá thư của Ðại tá Nguyễn Thông (Ba Kế), Phó ban Liên lạc Ðoàn Phương Ðông miền Tây Nam Bộ. Thư ghi: “Kính gửi đồng chí Ba Hoà (vợ đồng chí Ba Danh)” kèm theo địa chỉ. Lá thư được đánh máy, nội dung thư, nhân dịp xuất bản quyển sách “Những kỷ niệm sâu sắc của Ðoàn Phương Ðông miền Trung và Tây Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Ban Liên lạc Ðoàn Phương Ðông tổ chức buổi họp mặt (năm 2005), có mời tất cả cựu chiến binh của đoàn và gia đình các đồng chí trong đoàn đã hy sinh về dự. Nhưng tiếc là không thấy có mặt bà Hoà, nên gửi thư thăm hỏi, kèm theo gửi biếu quyển sách. Cuối thư, còn có phần tái bút với chữ viết tay: “Ðược thơ, chị Ba cho biết tình hình gia đình. Lâu quá không được tin chị và các cháu”.

Bà Trần Thị Hoà bồi hồi kể câu chuyện tình yêu của mình với người chồng là cán bộ tập kết Ðoàn Phương Ðông.

Bà Trần Thị Hoà (Ba Hoà) năm nay đã ở tuổi 86, người mảnh khảnh, sức khoẻ còn tốt, giọng từ tốn, đặc biệt đầu óc bà còn rất minh mẫn. Bà cho biết, chồng bà là ông Trần Danh, quê Bến Tre, nhập ngũ năm 1948 ở Tiểu đoàn 306; là bộ đội tập kết, tham gia trong Ðoàn Phương Ðông về Nam năm 1961. Ông được phân công công tác ở Ban Thông tin Quân khu 9, chức vụ Ðại đội trưởng, hoạt động địa bàn từ U Minh Thượng (Kiên Giang) đến Sông Trẹm, Cái Tàu...

Ông và bà quen nhau năm 1962, khi đó bà là Bí thư Chi bộ Ấp 6 La Cua, xã Biển Bạch (nay gồm Biển Bạch Ðông, Biển Bạch, Tân Bằng). Năm 1963, hai người thành hôn.

“Anh bận làm nhiệm vụ suốt, lâu lâu trên đường đi công tác thì ghé ngang thăm nhà. Có khi ở được 1-2 bữa, có khi chiều ghé ngủ rồi sáng lại đi. Sau khi sinh con đầu lòng, tôi là Xã uỷ viên, công tác nhiều hơn trước, có khi chồng về cũng không gặp”, bà nhắc về chồng bằng tình cảm yêu thương, trìu mến. Cũng giọng đầy xúc động, bà kể tiếp: “Anh hiền lắm, thiệt tình lắm, đối với gia đình, bạn bè rất tốt, vui vẻ, hoà đồng. Toàn bộ gia đình bên tôi, ai cũng thương ảnh. Anh cũng quan tâm, lo cho tôi dữ lắm. Chuyện công tác của tôi, anh bảo cứ làm được gì thì làm, tuỳ tôi, chứ không hề can ngăn, hay khuyên nghỉ, mặc dù có nhiều lần anh về, tôi bận công tác, vợ chồng chẳng gặp được nhau...”.

Chồng lo công tác, một mình bà vừa nuôi con vừa làm nhiệm vụ cơ sở rất vất vả, nhưng đó là do bà lựa chọn nên luôn cố gắng khắc phục để vượt qua. Bà kể, lúc ấy Nhà thơ, Nhà báo Nguyễn Hải Tùng có làm bài thơ về bà đăng trên báo, giờ bà còn nhớ được mấy câu:

“Hình ảnh Ba Hoà Xã uỷ viên

Cũng là người mẹ dịu hiền...

...

Bồng con đi họp lội ngang cánh đồng”.

Lấy nhau 4 năm, gặp nhau, sống cùng nhau cộng lại không được mấy tháng thì năm 1967,  chồng bà hy sinh.

Lúc đó con gái lớn 3 tuổi, con trai nhỏ mới sinh 4 tháng, nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn lao nhưng bà vẫn kiên cường không quỵ ngã. Một mình vừa tham gia công tác cách mạng, vừa nuôi con, lại gánh nỗi đau lớn trong đời, bà tự nhủ lòng phải mạnh mẽ gấp đôi.

“Lúc đó ở xứ này có biết bao gia đình bị giặc giết, có gia đình 2-3 người, có gia đình 4-5 người. Như gia đình ông Nguyễn Phúc Ánh cùng xóm này, bị giặc giết 5 người con, chôn 5 ngôi mộ song song. Về sau ông bị thần kinh rồi mất. Gia đình tôi, ba công tác ở Quân khu 9, mẹ làm trong Tổ Ðảng, đã hy sinh; 4 chị em gái đều lấy chồng bộ đội, 3 người có chồng hy sinh. Lúc đó căm thù thì ai cũng căm thù. Không đi làm cách mạng cũng chưa hẳn sống, mình đi có chết nhưng cũng góp công sức để giải phóng quê hương”, bà giãi bày.

Ðất nước độc lập là niềm vui lớn, nhưng bên cạnh đó, cuộc sống vẫn lắm bộn bề gian khó. Bà lại tiếp tục vừa công tác vừa nuôi con. Năm 1980, bà là Bí thư Ðảng uỷ xã Biển Bạch. Năm 1991, bà nghỉ hưu.

“Hồi đó Chủ tịch, Bí thư xã không có lương. Vừa tham gia công tác vừa làm ruộng, chăn nuôi để có tiền lo cho gia đình. Vất vả vô cùng. Ði công tác vận động sản xuất, vận động bảo vệ Tổ quốc... phải lội bộ đến từng nhà. Những lúc hội nghị ở huyện mấy ngày, khuya là dậy cho heo ăn, 5 giờ chèo xuồng ra tới huyện dự họp; chiều chèo về, hôm sau lại đi... Thời khó khăn đó, một số đảng viên nam, nữ không cầm cự nổi đã nghỉ, tôi thì vẫn đeo đuổi. Tôi nghĩ, thời chiến tranh giặc giã, khó khăn cỡ nào còn trụ được, giờ phải kiên trì... Phải nối tiếp truyền thống cách mạng gia đình”, bà tâm tình.

Trải qua thời chiến tranh, với bao đạn bom, bao đau thương lấp đầy tuổi trẻ, tấm Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 64 năm tuổi Ðảng, con cái cũng được học hành, chữ nghĩa đàng hoàng, với bà như vậy cũng thấy bằng lòng. Và cái giá lớn nhất là được hưởng cuộc sống thanh bình, không còn đạn lạc, bom rơi.

Ông Ba Kế và rất nhiều người lính Ðoàn Phương Ðông ngày nào, bây giờ đã về với đất. Và dĩ nhiên còn rất nhiều câu chuyện tình yêu, chuyện gia đình của những người lính Ðoàn Phương Ðông chưa được kể. Câu chuyện của ông bà Hoà nghe qua cũng bình thường, nhưng đằng sau đó, đọng lại những điều thật ý nghĩa về tình yêu và sự trở về quê hương chiến đấu của người lính; về nghị lực phi thường của người mẹ, người vợ trong nỗi mất mát đau thương bởi bom đạn chiến tranh. Ở đó còn có cái nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt, có niềm tin vào ngày mai tươi sáng, có tình đồng chí, đồng đội một thời luôn ấm áp, yêu thương./.

 

Huyền Anh

 

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.