ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 16:26:29
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ðoàn Phương Ðông - Vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu

Báo Cà Mau Trước tình hình Mỹ - Diệm ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam với nhiều thủ đoạn dã man, tàn bạo, gây bao đau thương tang tóc cho quê nhà, nhiều cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc lòng sôi sục căm thù, quyết tâm tham gia cùng các đoàn trở về quê hương chiến đấu, trong đó có Ðoàn Phương Ðông với quân số lên đến gần 600 người.

Hành trình về nam chiến đấu

Lực lượng quân sự khi tập kết ra Bắc, một số được đi học văn hoá, đào tạo cán bộ ở các trường trong và ngoài quân đội, số còn lại tập trung huấn luyện, xây dựng quân đội chính quy, lao động sản xuất... góp phần cùng miền Bắc xây dựng hậu phương vững mạnh.

Với ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị thành lập binh đoàn mở đường Trường Sơn (Ðoàn 559) để chi viện cho chiến trường miền Nam. Ðoàn có nhiệm vụ mở con đường mòn gùi thồ, hành quân bộ (về sau phát triển thêm đường cơ giới), đó chính là con đường Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, con đường giao thông huyết mạch góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Bộ đội vượt Trường Sơn. Ảnh tư liệu

Cuối năm 1959, khi đường Trường Sơn được khai thông, Ðảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng bắt đầu chỉ đạo thành lập và đưa các đoàn cán bộ quân sự là con em miền Nam tập kết ra Bắc về tăng cường cho cách mạng miền Nam. Ban đầu là những đoàn nhỏ, số lượng vài chục đến vài trăm người. Ngày 7/5/1961, đoàn cán bộ quân sự có số lượng lớn đầu tiên với gần 600 người mang tên Ðoàn Phương Ðông đã lên đường về Nam chiến đấu.

Ðoàn Phương Ðông lên đường vào Nam được biên chế thành khung của các cơ quan quân sự Miền; khung các đơn vị binh chủng pháo binh, đặc công, công binh, thông tin...; khung các Bộ Tư lệnh Quân khu 8, Quân khu 9 và khung các trung đoàn chủ lực Miền. Từ đó góp phần xây dựng lực lượng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại và ngày càng lớn mạnh, lập nên nhiều chiến công lớn, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu cùng với lý tưởng cách mạng và tiếng gọi quê hương, những người lính tập kết trở về đã chịu đựng biết bao gian khổ, hiểm nguy. Kết thúc chiến tranh, trong số cán bộ quân sự Ðoàn Phương Ðông ngày nào, có 57 người hy sinh; 5 Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân; 11 người mang hàm cấp tướng, đảm nhận các chức vụ từ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đến các Tư lệnh phó Tư lệnh Quân khu 8 và Quân khu 9; hàng trăm người cấp tá, cấp uý, hàng chục người trở thành cán bộ chủ chốt trong các cơ quan dân chính đảng ở các địa phương đồng bằng sông Cửu Long.

Và câu chuyện tình yêu người lính Phương Đông

Qua giới thiệu, một ngày tháng 9, tôi đến ấp Tân Bằng, xã Tân Bằng, huyện Thới Bình, gặp bà Trần Thị Hoà, đầu mối chính của bài viết.

Trước mặt tôi là 2 quyển sách có tên: “Những kỷ niệm sâu sắc của Ðoàn Phương Ðông miền Trung và Tây Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Bộ Tư lệnh Quân khu 9 và “Những truyện ngắn thông tin liên lạc Quân khu 9 - 30 năm kháng chiến” của Ban Liên lạc Cựu chiến binh Thông tin Quân khu 9. Kẹp trong quyển sách là lá thư của Ðại tá Nguyễn Thông (Ba Kế), Phó ban Liên lạc Ðoàn Phương Ðông miền Tây Nam Bộ. Thư ghi: “Kính gửi đồng chí Ba Hoà (vợ đồng chí Ba Danh)” kèm theo địa chỉ. Lá thư được đánh máy, nội dung thư, nhân dịp xuất bản quyển sách “Những kỷ niệm sâu sắc của Ðoàn Phương Ðông miền Trung và Tây Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Ban Liên lạc Ðoàn Phương Ðông tổ chức buổi họp mặt (năm 2005), có mời tất cả cựu chiến binh của đoàn và gia đình các đồng chí trong đoàn đã hy sinh về dự. Nhưng tiếc là không thấy có mặt bà Hoà, nên gửi thư thăm hỏi, kèm theo gửi biếu quyển sách. Cuối thư, còn có phần tái bút với chữ viết tay: “Ðược thơ, chị Ba cho biết tình hình gia đình. Lâu quá không được tin chị và các cháu”.

Bà Trần Thị Hoà bồi hồi kể câu chuyện tình yêu của mình với người chồng là cán bộ tập kết Ðoàn Phương Ðông.

Bà Trần Thị Hoà (Ba Hoà) năm nay đã ở tuổi 86, người mảnh khảnh, sức khoẻ còn tốt, giọng từ tốn, đặc biệt đầu óc bà còn rất minh mẫn. Bà cho biết, chồng bà là ông Trần Danh, quê Bến Tre, nhập ngũ năm 1948 ở Tiểu đoàn 306; là bộ đội tập kết, tham gia trong Ðoàn Phương Ðông về Nam năm 1961. Ông được phân công công tác ở Ban Thông tin Quân khu 9, chức vụ Ðại đội trưởng, hoạt động địa bàn từ U Minh Thượng (Kiên Giang) đến Sông Trẹm, Cái Tàu...

Ông và bà quen nhau năm 1962, khi đó bà là Bí thư Chi bộ Ấp 6 La Cua, xã Biển Bạch (nay gồm Biển Bạch Ðông, Biển Bạch, Tân Bằng). Năm 1963, hai người thành hôn.

“Anh bận làm nhiệm vụ suốt, lâu lâu trên đường đi công tác thì ghé ngang thăm nhà. Có khi ở được 1-2 bữa, có khi chiều ghé ngủ rồi sáng lại đi. Sau khi sinh con đầu lòng, tôi là Xã uỷ viên, công tác nhiều hơn trước, có khi chồng về cũng không gặp”, bà nhắc về chồng bằng tình cảm yêu thương, trìu mến. Cũng giọng đầy xúc động, bà kể tiếp: “Anh hiền lắm, thiệt tình lắm, đối với gia đình, bạn bè rất tốt, vui vẻ, hoà đồng. Toàn bộ gia đình bên tôi, ai cũng thương ảnh. Anh cũng quan tâm, lo cho tôi dữ lắm. Chuyện công tác của tôi, anh bảo cứ làm được gì thì làm, tuỳ tôi, chứ không hề can ngăn, hay khuyên nghỉ, mặc dù có nhiều lần anh về, tôi bận công tác, vợ chồng chẳng gặp được nhau...”.

Chồng lo công tác, một mình bà vừa nuôi con vừa làm nhiệm vụ cơ sở rất vất vả, nhưng đó là do bà lựa chọn nên luôn cố gắng khắc phục để vượt qua. Bà kể, lúc ấy Nhà thơ, Nhà báo Nguyễn Hải Tùng có làm bài thơ về bà đăng trên báo, giờ bà còn nhớ được mấy câu:

“Hình ảnh Ba Hoà Xã uỷ viên

Cũng là người mẹ dịu hiền...

...

Bồng con đi họp lội ngang cánh đồng”.

Lấy nhau 4 năm, gặp nhau, sống cùng nhau cộng lại không được mấy tháng thì năm 1967,  chồng bà hy sinh.

Lúc đó con gái lớn 3 tuổi, con trai nhỏ mới sinh 4 tháng, nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn lao nhưng bà vẫn kiên cường không quỵ ngã. Một mình vừa tham gia công tác cách mạng, vừa nuôi con, lại gánh nỗi đau lớn trong đời, bà tự nhủ lòng phải mạnh mẽ gấp đôi.

“Lúc đó ở xứ này có biết bao gia đình bị giặc giết, có gia đình 2-3 người, có gia đình 4-5 người. Như gia đình ông Nguyễn Phúc Ánh cùng xóm này, bị giặc giết 5 người con, chôn 5 ngôi mộ song song. Về sau ông bị thần kinh rồi mất. Gia đình tôi, ba công tác ở Quân khu 9, mẹ làm trong Tổ Ðảng, đã hy sinh; 4 chị em gái đều lấy chồng bộ đội, 3 người có chồng hy sinh. Lúc đó căm thù thì ai cũng căm thù. Không đi làm cách mạng cũng chưa hẳn sống, mình đi có chết nhưng cũng góp công sức để giải phóng quê hương”, bà giãi bày.

Ðất nước độc lập là niềm vui lớn, nhưng bên cạnh đó, cuộc sống vẫn lắm bộn bề gian khó. Bà lại tiếp tục vừa công tác vừa nuôi con. Năm 1980, bà là Bí thư Ðảng uỷ xã Biển Bạch. Năm 1991, bà nghỉ hưu.

“Hồi đó Chủ tịch, Bí thư xã không có lương. Vừa tham gia công tác vừa làm ruộng, chăn nuôi để có tiền lo cho gia đình. Vất vả vô cùng. Ði công tác vận động sản xuất, vận động bảo vệ Tổ quốc... phải lội bộ đến từng nhà. Những lúc hội nghị ở huyện mấy ngày, khuya là dậy cho heo ăn, 5 giờ chèo xuồng ra tới huyện dự họp; chiều chèo về, hôm sau lại đi... Thời khó khăn đó, một số đảng viên nam, nữ không cầm cự nổi đã nghỉ, tôi thì vẫn đeo đuổi. Tôi nghĩ, thời chiến tranh giặc giã, khó khăn cỡ nào còn trụ được, giờ phải kiên trì... Phải nối tiếp truyền thống cách mạng gia đình”, bà tâm tình.

Trải qua thời chiến tranh, với bao đạn bom, bao đau thương lấp đầy tuổi trẻ, tấm Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 64 năm tuổi Ðảng, con cái cũng được học hành, chữ nghĩa đàng hoàng, với bà như vậy cũng thấy bằng lòng. Và cái giá lớn nhất là được hưởng cuộc sống thanh bình, không còn đạn lạc, bom rơi.

Ông Ba Kế và rất nhiều người lính Ðoàn Phương Ðông ngày nào, bây giờ đã về với đất. Và dĩ nhiên còn rất nhiều câu chuyện tình yêu, chuyện gia đình của những người lính Ðoàn Phương Ðông chưa được kể. Câu chuyện của ông bà Hoà nghe qua cũng bình thường, nhưng đằng sau đó, đọng lại những điều thật ý nghĩa về tình yêu và sự trở về quê hương chiến đấu của người lính; về nghị lực phi thường của người mẹ, người vợ trong nỗi mất mát đau thương bởi bom đạn chiến tranh. Ở đó còn có cái nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt, có niềm tin vào ngày mai tươi sáng, có tình đồng chí, đồng đội một thời luôn ấm áp, yêu thương./.

 

Huyền Anh

 

Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thị Mai viếng Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sáng nay (16/11), Đoàn công tác Ban Tuyên giáo Trung ương do Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thị Mai làm trưởng đoàn đến viếng, dâng hương tại Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (Khóm 1, Phường 1, TP Cà Mau) và Khu di tích lịch sử cấp tỉnh Bia kỷ niệm Bác Hồ với cây vú sữa miền Nam, tại Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình.

Tổng duyệt chương trình cầu truyền hình kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc

Để chuẩn bị sẵn sàng cho sự kiện trọng đại lễ kỹ niệm 70 năm chuyến tàu tập kết ra Bắc (1954-2024), tối 15/11, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Tiến Hải; Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Thành Ngại; Phó chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Luân đến dự buổi tổng duyệt chương trình cầu truyền hình kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024) và rà soát công tác tổ chức lễ.

“200 ngày tập kết ra Bắc ở Cà Mau - Tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử” 

Nhằm đánh giá toàn diện về vai trò, ý nghĩa lịch sử và tầm nhìn chiến lược của Đảng, Bác Hồ trong sự kiện tập kết năm 1954, chiều 15/11, tỉnh Cà Mau tổ chức Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc ở Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử". Đây là một trong những hoạt động ý nghĩa nằm trong chuỗi hoạt động của sự kiện 70 năm tập kết ra Bắc.

Bến tập kết năm xưa

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 20/7/1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định, cùng với Khu tập kết 80 ngày ở Hàm Tân (Bình Thuận) và Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu), Khu tập kết 100 ngày ở Cao Lãnh (Ðồng Tháp), thì Khu tập kết 200 ngày ở Cà Mau. Cửa biển Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời là bến tập kết để đưa cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, học sinh ở miền Nam ra Bắc để lao động, học tập, tạo nguồn cán bộ phục vụ cách mạng miền Nam.

Xúc cảm vẹn nguyên

Từ những ngày đầu tháng 11, cao điểm các hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024) được diễn ra khắp nơi trong tỉnh Cà Mau. Ðối với những người trong cuộc - chứng nhân của dấu mốc lịch sử ấy lại ùa về bao cảm xúc bồi hồi, nôn nao ngày họp mặt để sống lại hồi ức cách nay 70 năm, ngày lên tàu rời quê hương với niềm tin mãnh liệt vào con đường cách mạng mà Ðảng và Bác Hồ đã chọn.

Từ Sông Ðốc các anh đi

Vào khoảng cuối năm 1954, mấy chục căn nhà dọc theo sông Cái Bát (xã Tân Dân, huyện Ðầm Dơi ngày nay) đều có bộ đội đóng quân, riêng căn nhà 3 gian của tôi đủ chứa cả tiểu đội. Các anh di chuyển bằng những chiếc xuồng năm lá, từ Cần Thơ, Vĩnh Long... xuống. Chỉ ít hôm là các anh đi, về đâu tôi chẳng hề biết, chỉ để lại tình cảm quân - dân như cá với nước. Cho đến khi lớn lên, đi làm cách mạng, tôi mới biết Cà Mau là vùng tập kết 200 ngày, vậy là chắc các anh đi về Sông Ðốc để lên tàu tập kết ra Bắc.

Bác Ba Lê Duẩn và Nghị quyết 15

Năm 1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Cà Mau là điểm tập kết lớn nhất Nam Bộ với 200 ngày và Sông Ðốc là bến tiễn đưa bộ đội và đồng bào miền Nam ra Bắc.

Sông Đốc sẵn sàng cho sự kiện 70 năm tập kết ra Bắc (1954-2024)

Chỉ còn 2 ngày nữa tại thị trấn Sông Đốc huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau sẽ diễn ra lễ kỉ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024). Đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, ghi nhớ sự kiện các chuyến tàu chở hàng trăm ngàn cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra miền Bắc lao động, học tập, nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng miền Nam.

Nói chuyện chuyên đề vai trò phụ nữ trong sự kiện tập kết ra Bắc

Sáng nay (14/11), Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Cà Mau tổ chức buổi chuyên đề Vai trò đóng góp của phụ nữ trong sự kiện tập kết ra Bắc và hưởng ứng tháng hành động vì bình đẳng giới, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2024, tại xã Trí Phải, huyện Thới Bình. 

Lịch sử vọng vang

Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Ðông Dương được ký kết (20/7/1954), Cà Mau được chọn là 1 trong 3 khu vực tập kết, chuyển quân của lực lượng cách mạng ở Nam Bộ với thời hạn 200 ngày. Sau 70 năm, với độ lùi của thời gian, sự kiện tập kết ở Cà Mau đã được đánh giá, khẳng định ngày càng toàn diện, thấu đáo về tầm vóc, ý nghĩa, vai trò hết sức đặc biệt trong tiến trình lịch sử cách mạng của địa phương, Nam Bộ và đất nước.