(CMO) Tôi đọc bài thơ này trên báo Vĩnh Long xuân năm 2014 (và sau này tiếp tục đăng trên một số báo khác). 5 năm sau, vào một ngày tháng 7 đọc lại vẫn thấy lòng đầy cảm xúc.
Nén nhang chưa đốt sẽ dành thắp ở Nghĩa trang Trường Sơn
Nếu ngày mai con đưa được cha về thăm Quảng Trị
Hơn mười ngàn linh hồn chọn đất lành yên nghỉ
Gió đầu non, bão cuối ghềnh đều vọng khúc tráng ca
Cha nói với con về những nấm mồ liệt sĩ vô danh
Có khi đó là đồng đội cha thời ở chiến trường miền Đông đánh Mỹ
Lạc hết rồi những cái tên, những dòng địa chỉ
Thôi, cùng nằm lại nơi này để được ăn bát cơm chung
Thương đất nghèo cha nối lại lịch sử qua giọng kể run run
Con sinh ra trong hoà bình không thể biết mùa hè năm bảy mươi hai đỏ lửa
Ba lô khoác lên vai ngược vào Nam
Chuyện kể về những chàng thư sinh gốc Bắc
Bom đạn kẻ thù trút oằn đất nước buổi chia phôi...
Con sông buồn gì, sao cứ rấm rứt trôi?
Bao nhiêu chàng trai đã bơi qua dòng Thạch Hãn nuôi giấc mơ hoà bình cho xứ sở?
Mỗi mét đất ở Quảng Trị phải gánh trên mình hơn sáu mươi kí-lô bom đạn
Hỏi chiến trường nào không nhuộm máu cha anh?
Làm sao không yếu lòng khi bè bạn hy sinh?
Chiếc lược làm từ mảnh xác máy bay vẫn còn đây - kỷ vật
Quá khứ khép lại rồi, giờ kẻ còn, người mất
Dưới chân Nghĩa trang Trường Sơn cha sẽ nói với con về những hạt mùa xuân nẩy mầm từ đất
Đồng đội cha xưa, giấc ngủ mấy chập chờn...
Trên sườn đồi khẩu đội pháo giật tung
Những chàng trai giã người yêu luôn cười giòn tan bên công sự
Giấu nhớ thương toả hồng niềm tin chiến thắng
Hoa ven đường vẫn nở theo gót chân thơm
Trở lại mong ước cùng cha thăm Nghĩa trang Trường Sơn
Mùa xuân gieo yêu thương trong từng thớ đất
Cha nói với con sẽ hát ru đồng đội đang nằm kia khúc U Minh trầm mặc
Giọt nước mắt vỡ oà theo nếp nghĩ thời gian...
Ngày mai con sẽ đưa cha về thăm đồng đội ở Nghĩa trang Trường Sơn
Huỳnh Thuý Kiều
“Nén nhang chưa đốt sẽ dành thắp ở Nghĩa trang Trường Sơn/Nếu ngày mai con đưa được cha về thăm Quảng Trị”
Bài thơ được mở đầu bằng những câu thơ một lời thủ thỉ, lời tự hứa của người con với cha mình. Tại sao lại là “Nếu mai này con đưa được cha về thăm Quảng Trị”? Quảng Trị có xa xôi lắm đâu mà trở nên khó đi đến thế?
Cha của Nhà thơ Huỳnh Thuý Kiều, ông Huỳnh Minh Thái, tham gia cách mạng từ năm 1958, ở Tiểu đoàn U Minh 1. Quãng thời gian hơn 10 năm cuối đời, ông đối diện với rất nhiều căn bệnh. Như trong bài "Thơ viết tặng cha", chị đã viết: “Quắt queo cha mang bao vết thương chiến trận/Những mảnh đạn trong người vẫn đau buốt nhói tàn đêm”. Suốt thời gian đó, cô gái út Huỳnh Thuý Kiều luôn là người đưa đón, chăm sóc cha đi khám và chữa bệnh nhiều nơi, được nghe cha kể nhiều câu chuyện của đời mình và xứ sở.
Niềm mong mỏi lớn nhất của ông là được đến Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, bởi lẽ:
“Cha nói với con về những nấm mồ liệt sĩ vô danh/Có khi đó là đồng đội cha thời ở chiến trường miền Đông đánh Mỹ/ Lạc hết rồi những cái tên, những dòng địa chỉ/Thôi, cùng nằm lại nơi này để được ăn bát cơm chung”
Khi bạn có một thân thể khoẻ mạnh thì đi đâu cũng dễ dàng, còn với một thương binh mang trên mình nhiều, rất nhiều căn bệnh, quãng đường hơn ngàn cây số từ Cà Mau đến Quảng Trị cũng là ước mơ cháy bỏng và day dứt.
“Thương đất nghèo cha nối lại lịch sử qua giọng kể run run/Con sinh ra trong hoà bình không thể biết mùa hè năm bảy mươi hai đỏ lửa…/Ba lô khoác lên vai ngược vào Nam/Chuyện kể về những chàng thư sinh gốc Bắc/Bom đạn kẻ thù trút oằn đất nước buổi chia phôi...Rồi mạch thơ lúc như thủ thỉ, như thuật lại những lời người cha đã nói cùng con gái với âm điệu da diết, hào hùng về lịch sử:
Con sông buồn gì, sao cứ rấm rứt trôi?/Bao nhiêu chàng trai đã bơi qua dòng Thạch Hãn nuôi giấc mơ hoà bình cho xứ sở?/Mỗi mét đất ở Quảng Trị phải gánh trên mình hơn sáu mươi kí-lô bom đạn/Hỏi chiến trường nào không nhuộm máu cha anh?”
Huỳnh Thuý Kiều được xem là gương mặt nhà thơ nữ đặc sắc của đồng bằng sông Cửu Long bởi những phá cách táo bạo trong tứ thơ, cách sử dụng phương ngữ rặt Nam Bộ. Bên cạnh mảng đề tài về quê hương, tình yêu, chị vẫn có một mảng nhỏ rất đặc sắc viết về đề tài cha, về chiến tranh, về người lính. Mỗi bài thơ đều tạo được sự ám ảnh cho người đọc bởi mỗi từ, mỗi câu đều là sự giao cảm của một nhà thơ và con của một người lính. Ta có thể thấy rất rõ điều này trong bài thơ "Đưa cha về thăm Nghĩa trang Trường Sơn". Có 3 nhân vật trong đấy với cảm xúc của nhân vật Cha - người lính, của đứa con gái đối với người cha, của một nhà thơ nghĩ về chiến tranh.
Cái chết là điều không ai có thể đoán định được và cũng là đề tài lớn từ cổ chí kim. Trong quan điểm của Phật giáo nguyên thuỷ, giây phút cận tử sẽ quyết định nơi tái sinh của con người ở kiếp tiếp theo. Hiện nay, nhiều người cũng đang tập cảm giác “cận tử”, đối mặt với cái chết để có tâm thế tốt nhất. Nói điều này để hiểu rõ hơn rằng, nhiều người vẫn nói, vì sao chiến tranh đã khép lại mà người trong cuộc chiến vẫn nói về cái chết, tự sự về cái chết, đau đớn và day dứt với cái chết. Như chính người cha trong bài thơ đã nói với con:
“Làm sao không yếu lòng khi bè bạn hy sinh?/Chiếc lược làm từ mảnh xác máy bay vẫn còn đây - kỷ vật”
Nhắc điều còn đọng lại trong lòng, trong suy nghĩ để người lính hôm nay nhắn nhủ con mình về những điều lớn lao hơn.
“Quá khứ khép lại rồi, giờ kẻ còn, người mất/Dưới chân nghĩa trang Trường Sơn cha sẽ nói với con về những hạt mùa xuân nẩy mầm từ đất”
Đến hôm nay, khi trò chuyện với tôi về bài thơ này, chị vẫn rơi nước mắt. Bởi một điều chưa trọn vẹn với cha. Đó là đến khi ông mất, chị vẫn chưa thể đưa cha đến Nghĩa trang quốc gia Trường Sơn. Để rồi khi cha mất, chị đã làm bài thơ "Ngày của cha" với những câu viết lên từ gan ruột, từ nước mắt, từ sự chiêm nghiệm khi vắng xa vĩnh viễn: “Con đưa tay vuốt mắt cha/Con sẽ tìm và thay cha tri ân bác Ba, cô Năm, chú Bảy/Miền Đông bây giờ con đang đứng khóc giữa đất đỏ ba-zan...”.
Có lẽ, sự tiếp nối quý báu nhất đó chính là tri ân và viết tiếp sự yêu thương sự sống, yêu thương quê hương mà các thế hệ đi trước đã chắt chiu để lại! Và như mong ước của người cha - người lính: “Mùa xuân gieo yêu thương trong từng thớ đất”!./.
Phương Nam