Cuối năm 2016, Ban Tổ chức Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau xét tặng cho 14 tác giả ở 8 lĩnh vực. Ðây là lần thứ 3 Giải thưởng Phan Ngọc Hiển vinh danh những người hoạt động văn học, nghệ thuật có nhiều đóng góp cho Cà Mau.
Thơ là ngọn Hải đăng của tâm hồn lính biển
Gặp Ðại tá Khưu Ngọc Bảy, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 962 anh hùng, trong chuyến gia đình ông xuôi về Ðất Mũi, ông bộc bạch: “Mỗi lần về Cà Mau là thấy mình khoẻ ra”.
Là người lính qua nhiều chiến trường, ông nói: “Lúc nào rảnh thì đọc thơ, có những bài đọc đi đọc lại hoài vì hay quá, đúng với mình quá”. Rồi ông tập làm thơ, xem thơ như người bạn vượt qua những thử thách chông gai nhất của cuộc đời. Ông nói, làm thơ là trả nợ. Nợ mảnh đất Tân Ân - Rạch Gốc, nơi thầy giáo Hiển ươm mầm cách mạng. Nợ những người đồng đội, những người nông dân, những bà má miền biển bền gan cùng Ðoàn 962 xây dựng và bảo vệ bến cảng, kho tàng.
Ngọn Hải đăng Hòn Khoai vẫn đêm đêm ngời sáng dẫn đường trong lòng người đại tá, vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc là “mắt biển” của hồn thơ. Ông tâm sự: “Mình làm thơ tay ngang, bởi vậy khi hạ quyết tâm viết trường ca “Bến cảng giữa rừng” thì khó khăn lắm”. 14 năm để hoàn thành tác phẩm, có những năm ông không viết nổi một đoạn thơ.
Ông vẫn trăn trở: “Làm sao có thể diễn tả hết, kể hết những câu chuyện, những con người, những huyền thoại ở vùng đất Rạch Gốc - Tân Ân”. Ông sinh ra và lớn lên ở An Giang, nhưng như lời Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài: “Có lẽ không nơi nào ông gắn bó sâu đậm bằng vùng đất Cà Mau”. Ông Bảy cười thật hiền: “Ở Cà Mau còn có hạnh phúc riêng tư của bản thân, đó là bác Bảy gái quê ở Trần Văn Thời”.
Trường ca “Bến cảng giữa rừng” là tấm lòng của Ðại tá Khưu Ngọc Bảy để trả ơn và trả nợ. Ông kết cấu với 4 chương, giọng thơ linh hoạt, thể loại thơ đan xen với giọng thơ lúc đằm thắm, khi cao trào. Thơ ông cũng như đời ông, lắm thăng trầm nhưng chân phương, gần gũi. Về Cà Mau, ông tìm thấy mình, tìm thấy hồn thơ, tìm thấy niềm tin yêu vào cuộc sống. Thơ là ngọn hải đăng trong tâm hồn Ðại tá Khưu Ngọc Bảy. Hải đăng là để dẫn đường, để người đi còn biết quay về.
Tay ngang nhưng vọng cổ “sang”
Tác giả Huỳnh Hồng là trường hợp đặc biệt của Cà Mau: Tay ngang viết vọng cổ nhưng viết hơn 150 bài, đoạt giải ở tác phẩm đầu tay và được coi là người viết vọng cổ “sang” trong giới. Ông cho biết: “Cả đời có ba nghề, một là trong xí nghiệp in, hai là làm minh ngữ (chuyển phát tin công khai thời chiến), sau là làm lĩnh vực nghiệp vụ văn hoá”.
Nghe qua chẳng liên quan gì đến sáng tác vọng cổ, nhưng với ông thì đó là những trải nghiệm cực kỳ quý giá: “In thì đọc báo, đọc tài liệu, minh ngữ cũng vậy, làm nghiệp vụ càng tiếp cận gần hơn với nghệ thuật”. Từ đó ông tích luỹ cho mình một “kho” ngôn từ phong phú, đây là nền tảng cho những tác phẩm vọng cổ xuất sắc của ông được đông đảo khán giả yêu mến.
Với “Viếng đài liệt sĩ Hòn Khoai”, tác phẩm đầu tay sáng tác năm 1990, ông có những ký ức sâu đậm: “Ngay dịp kỷ niệm 50 năm Khởi nghĩa Hòn Khoai, tôi viết bài này”. Tại lễ kỷ niệm, phần văn nghệ khai mạc thì “Ðệ nhị danh cầm” Trường Giang cầm giấy hát bài này, Nghệ sĩ Ưu tú Minh Hoàng khi đó đờn, hát xong khán giả vỗ tay ầm ầm.
Ông kể: “Sau đó, chú Út Nghệ (Nhà thơ Nguyễn Hải Tùng) tốc mùng dẫn tôi đi giới thiệu khắp quan khách tỉnh bạn. Còn chú Hai Phối (Nguyễn Thanh Vân, Phó Bí thư Thị xã uỷ Cà Mau khi ấy) thì sửa một chữ: “còn bay” thành “tung bay” khiến tôi phục sát đất”. Cả bác Trọng Nguyễn cũng động viên: “Bây viết được, cố gắng lên”.
Tác phẩm đầu tay ấy cũng là tác phẩm đoạt giải của tác giả Huỳnh Hồng trong đợt xét chọn Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau lần III. Với ông, bài vọng cổ ngoài giai điệu, bài bản còn phải đặc biệt chú trọng đến ngôn từ. Ông nói, người sáng tác phải đi để tìm cảm hứng, phải lao động nghiêm túc để có tác phẩm hay, tôn trọng bản thân và tác phẩm của chính mình. Không qua trường lớp, chỉ từ đam mê, tự học, Huỳnh Hồng đã đóng góp nhiều công sức cho việc gìn giữ, phát huy nghệ thuật đờn ca tài tử, cải lương ở Cà Mau.
Ông khẳng định: “Với tôi, quê hương, người mẹ, ký ức về chiến tranh là những đề tài không bao giờ cũ. Tôi sẽ viết đến khi nào còn có thể…”
Cái tên quen mà lạ
Ðạo diễn Nguyễn Tiến Dương là cái tên quen thuộc với các hoạt động văn hoá, nghệ thuật Cà Mau. Tuy nhiên, ông được xét Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển với vai trò hơi lạ, tác giả chặp cải lương “Hoa phong ba trổ bông”. Con đường sáng tạo của ông cũng rất thú vị: ông viết kịch nói, công diễn, đoạt giải nhưng trong lòng băn khoăn “còn thiếu thiếu điều gì”. Vậy là ông chuyển thể kịch nói sang chặp cải lương.
Ông bộc bạch: “Tôi lớn lên ở miền Bắc, nhưng bây giờ cũng là người Cà Mau rồi, cái chất cải lương ngấm vô lúc nào không hay”. Kỳ công mày mò, học hỏi các bậc đàn anh, nắn nót từng chữ đờn, nhịp lối, ông viết cải lương.
Với 4 tác phẩm cải lương đầu tay là: Hoa phong ba trổ bông, Ba xui nhưng con hên, Hồn Quốc Tổ và Nỗi niềm sau cuộc chiến, tác giả Tiến Dương đã hình thành một phong cách rất riêng trong sáng tác: cải lương chính luận.
"Hoa phong ba trổ bông" là tác phẩm thể hiện sâu đậm tình quân - dân ở nơi hải đảo xa xôi của Tổ quốc. Tác giả Tiến Dương cho biết: “Ở nơi đầu sóng ngọn gió, để bám trụ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc không hề đơn giản”.
Người lính bảo vệ bình yên cho dân, giúp dân chống chọi với bão dông, mở lớp dạy học và “làm bà đỡ để sinh em bé lúc khẩn cấp”. Kịch tính của tác phẩm cũng ở đó, một đêm dông bão kinh hoàng, một phụ nữ trở dạ, những anh bộ đội giúp đỡ và kết quả “mẹ tròn con vuông”. Ở đó, người ta trân quý biết bao tình cảm quân - dân. Ở đó, từng tấc đất, từng con sóng biển quê hương trở nên bất diệt.
Giai điệu tình đất, tình người
Từ niềm đam mê thời niên thiếu, Lữ Anh Ngọc làm “chuyến dạo chơi” trong hành trình âm nhạc. Ông kể: “Hồi nhỏ đi đờn ca tối ngày, rồi sau giải phóng tham gia Ban Văn hoá Phường 3 (một phần Phường 2 bây giờ), làm Trưởng Ban Văn nghệ". Cả ban lúc đó chỉ mình ông có lương là 15 kg gạo. Khi ấy, chàng trai mới lớn được nghe những bản nhạc cách mạng nhịp điệu nhanh, mạnh, sôi nổi, tự hào và bị thuyết phục hoàn toàn.
Năm 1977, Lữ Anh Ngọc về công tác ở Ðài Phát thanh Minh Hải rồi sau đó về Phòng Văn hoá - Thông tin thị xã Cà Mau. Sẵn năng khiếu, lại được tiếp cận với môi trường âm nhạc, hoạt động nghệ thuật, Lữ Anh Ngọc bắt đầu sáng tác từ rất sớm với tác phẩm "Minh Hải quê tôi", năm 1979. Tác phẩm đầu tay được công diễn, Lữ Anh Ngọc cứ “vừa xem vừa khóc”. Ông tâm sự: “Không phải vì tác phẩm xuất sắc đâu, mà tại mừng, vậy đó”.
Mãi đến năm 2002, Lữ Anh Ngọc mới được “học hành đàng hoàng” tại Trường Ðại học Sư phạm Âm nhạc TP Hồ Chí Minh. Năm 2010, ông được kết nạp hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Tới giờ trong tay ông có hơn 40 tác phẩm.
Ông nói: “Quê hương mình tới đâu cũng gặp anh hùng, tới đâu cũng thấy cái đẹp. Tôi cứ đi, cứ viết để ngợi ca”. Một lần ở trại sáng tác tại Ðầm Dơi, ông rảo bước trong buổi chiều, khi ngẩng đầu lên là một tượng đài tuyệt đẹp trong ánh nắng vàng mật, bốn bề là những ngả sông lấp lánh. Tác phẩm “Hát về cành hoa núi sông” được ra đời như thế.
Ông kể: “Ý tưởng đã có, mình tiếp tục tìm hiểu về người Nữ kiện tướng chiến hào Dương Thị Cẩm Vân, từ đó giai điệu, ca từ cứ tuôn ra. Vừa viết, tôi vừa bồi hồi trong lòng, có cảm giác như thấy cảnh người nữ anh hùng xông trận”.
Từ đam mê, Lữ Anh Ngọc đã kiên trì học tập, lao động nghệ thuật nghiêm túc để có những tác phẩm dạt dào cảm xúc. Ông sáng tác chậm, chắc và đầy suy tư. Mỗi tác phẩm là một lời ngợi ca cuộc sống. Ðến với âm nhạc của Lữ Minh Ngọc là đến với giai điệu của Cà Mau, tình đất, tình người./.
Bài và ảnh: Phạm Nguyên