Ít ai biết rằng, ông là bạn học của Hoạ sĩ Đặng Ái Việt, nữ hoạ sĩ ký hoạ nổi tiếng bậc nhất Việt Nam hiện nay ở lớp mỹ thuật của R (Trung ương Cục miền Nam). Ông cũng là một trong số ít những người được gọi là nhà báo, nhưng thành tựu lớn lại nằm ở gia sản ký hoạ hàng trăm bức. Ông là Nhà báo Nguyễn Hiệp, người mà qua đôi nét phác thảo có lẽ sẽ không đủ để kể hết về hành trình làm nghề báo, về hành trình của những bức ký hoạ mà ông đã dành cả tuổi thanh xuân, bất chấp mạng sống để hoàn thành.
Ít ai biết rằng, ông là bạn học của Hoạ sĩ Đặng Ái Việt, nữ hoạ sĩ ký hoạ nổi tiếng bậc nhất Việt Nam hiện nay ở lớp mỹ thuật của R (Trung ương Cục miền Nam). Ông cũng là một trong số ít những người được gọi là nhà báo, nhưng thành tựu lớn lại nằm ở gia sản ký hoạ hàng trăm bức. Ông là Nhà báo Nguyễn Hiệp, người mà qua đôi nét phác thảo có lẽ sẽ không đủ để kể hết về hành trình làm nghề báo, về hành trình của những bức ký hoạ mà ông đã dành cả tuổi thanh xuân, bất chấp mạng sống để hoàn thành.
Hôm ghé thăm, Nhà báo Nguyễn Hiệp (Hai Hiệp) tự hào giới thiệu, nhà ông có 3 tài sản quý nhất: vườn thuốc nam, 2 hòm tài liệu (chủ yếu lưu giữ các bức ký hoạ, tác phẩm báo chí) và đứa con gái đang học đại học trên TP Hồ Chí Minh. Hình như càng già, người ta lại càng ít tài sản, nhưng những cái còn lại toàn là vô giá. Ông Hai có lối nói chuyện nghiêm túc nhưng cũng hết sức dí dỏm: “Tài sản chung của vợ chồng hết, riêng 2 hòm tài liệu, bà nhà không được đụng vô đâu”.
Nhà báo Nguyễn Hiệp. Ảnh: PHẠM NGUYÊN |
Những tác phẩm ký hoạ của ông được khơi nguồn từ tờ U Minh Anh Dũng (1962-1969), một tờ báo mà giờ nhắc lại ít người còn biết đến. Ông Hai tham gia cách mạng thời kháng Pháp, sau đó đến kháng Mỹ. Nghiệp báo chí gắn với trách nhiệm của người chiến sĩ, riêng ông là người phụ trách trình bày, biên tập, minh hoạ cho tờ báo của lực lượng vũ trang tỉnh nhà. Ông nhớ lại: “Lớp học mấy tháng ở R năm 1963 đã cho tôi nhiều thứ lắm. Chương trình học hàng mấy năm dồn nén lại trong mấy tháng, không khí học tập khẩn trương, quyết liệt và vô cùng hiệu quả”. Sẵn với “hoa tay” từ trước, ông Hai bắt đầu được biết đến như một nhà báo đa năng.
Thời gian công tác ở Tỉnh đội, rồi Ban Tuyên huấn tỉnh, ông Hai càng có điều kiện phát huy sở trường của mình. Ông viết báo, ký hoạ và có thêm nghiệp vụ nhiếp ảnh. Khi nhớ lại quãng thời gian này, ông bồi hồi: “Ðó là tuổi trẻ, là niềm say mê, ngày đó gần như không biết gian khó, không sợ hy sinh”.
Ông nhớ người Tổng Biên tập tờ U Minh Anh Dũng Nguyễn Bá Thời, hy sinh khi trên tay còn cầm súng bảo vệ cơ quan. Ðó là hình ảnh khiến ông Hai hiểu thêm về sứ mệnh của một nhà báo cách mạng. Làm báo không chỉ là tác phẩm, là tài năng mà còn là ở lý tưởng cách mạng, là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, phụng sự lợi ích Nhân dân.
Trên những chiếc xuồng chèo, máy ảnh lôi thôi, chất liệu “có gì dùng nấy”, ông Hai đã tạo được dấu ấn khó phai với những cuộc triển lãm ký hoạ chiến trường “có một không hai”. Ông đặc biệt nhớ đến những ký hoạ về lực lượng Ð10, về những địa phương mà ông có dịp đứng chân công tác. Tác phẩm ký hoạ của ông tái hiện giản dị nhưng sinh động, xuất thần không khí cách mạng của Nhân dân Cà Mau anh hùng, từ đó toát lên niềm tin chiến thắng mãnh liệt.
Gọi là triển lãm cho “sang”, chứ thực ra là những buổi truyền tay nhau xem ký hoạ của bộ đội, của bà con trong những khoảnh khắc im tiếng súng. Ðặc điểm của ký hoạ có lẽ giống với tính cách của ông Hai: giản dị, dứt khoát nhưng ẩn sâu bên trong là một nội lực bền bỉ, sức ám ảnh lâu dài.
Về sau này, tổ chức đã bàn để chuyển hàng trăm tác phẩm của ông Hai ra đất Bắc để bảo quản, tránh thất lạc trong chiến tranh. Ông nghiêm túc chấp hành nhiệm vụ. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, ông Hai lại có cảm giác “thất lạc” những đứa con tinh thần của mình khi đất nước hoàn toàn giải phóng. Ông buồn hơn, khi lâu lâu lại thấy tác phẩm của mình xuất hiện nhưng lại… với tên người khác. Thời gian càng lùi xa, nỗi nhớ của ông về những bức ký hoạ máu thịt càng day dứt. Ông nói, nếu còn kịp và còn điều kiện để tập hợp lại tất cả, dù là chỉ để nhìn một lần, ông sẽ dốc hết sức để làm. Ông cho biết thêm, Hoạ sĩ Ái Việt cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự.
Ông Hai khẳng định, trước hết và sau cùng hết, những tác phẩm ký hoạ ra đời không phải vì tiền, không phải vì sự nổi tiếng. Mỗi bức ký hoạ là sự nén chặt của cuộc chiến đầy bom đạn, hy sinh, gian khổ. Người làm ký hoạ đã vượt lên tất cả những thử thách ấy để thực hiện quá trình sáng tạo. Ông ví von: “Con phải có cha, mẹ và tác phẩm phải có tác giả. Ðây không phải là chuyện lợi ích vật chất thông thường, nó quý báu và thiêng liêng lắm”.
Còn lại bao nhiêu tác phẩm, ông cất kỹ trong hòm, hầu như không cho ai tiếp cận. Những lúc nhớ quá, ông lại lọ mọ một mình lần giở ra xem. Mỗi bức ông đều ngắm thật lâu, bởi nó gắn với từng chặng đường của cuộc đời ông, nó cho thấy ông sống có ích, sống có trách nhiệm.
Ông Hai làm báo tận tuỵ, chăm chỉ và cẩn thận. Cách đây 2 năm, ông gặp cơn bạo bệnh, không thể đi lại nhưng ông vẫn viết đều đặn. Ông cộng tác rộng khắp với các báo địa phương, Trung ương và tập trung nhiều ở mảng chiến trường, tư liệu các trận đánh. Tính cách kiên trì, nhẫn nại đã giúp ông dần chiến thắng bệnh tật, giờ có thể đi lại, sinh hoạt bình thường. Ông nói: “Mình còn nợ với nghề, nợ với đứa con gái còn chưa trưởng thành nên phải tìm cách chiến đấu với tuổi già, bệnh tật. Niềm vui gia đình nhỏ, niềm vui với nghề báo, với các hoạt động xã hội đã tiếp thêm sức mạnh”.
Cứ lâu lâu, ông Hai lại bắt gặp được một “đứa con” của mình lang thang ở đâu đó với cái tên khác, tác giả khác. Ông lẳng lặng “giữ con” lại và để nó gặp gỡ với “anh em” trong ngôi nhà chung mà ông suốt đời gìn giữ. Ông cũng chẳng bận tâm phàn nàn, thắc mắc. Mỗi một tác phẩm ký hoạ hay báo chí, ông Hai đều coi “đó là cách mình sống với nghề, với cách mạng, với Nhân dân”. Sự cẩn trọng, chắt chiu và chân thành ấy đã để lại niềm kính phục của giới báo chí đối với ông: Nhà báo Nguyễn Hiệp./.
Bút ký của Phạm Nguyên