Vùng đất Bạc Liêu có 3 dân tộc anh em Kinh - Khmer - Hoa cùng cộng cư nên bản sắc văn hóa khá phong phú, độc đáo được thể hiện rõ qua sắc màu lễ hội. Đây còn là điều kiện thuận lợi để tỉnh khai thác thành sản phẩm du lịch, góp phần quảng bá hình ảnh vùng đất và con người Bạc Liêu. Thế nhưng, việc phát huy thế mạnh này chưa mang lại hiệu quả cao, chưa đóng góp lớn cho ngành “công nghiệp không khói” tỉnh nhà.
Khai thác các lễ hội truyền thống để thu hút khách du lịch luôn là nhiệm vụ được đề cập trong các nghị quyết, chương trình hành động về du lịch của Bạc Liêu. Mục tiêu mà tỉnh hướng đến là hình thành những sản phẩm mới dựa trên nguồn tài nguyên du lịch, tạo thêm điểm nhấn hấp dẫn và tránh sự trùng lắp với các địa phương trong khu vực ĐBSCL.
Những năm qua, tỉnh đã chỉ đạo ngành chức năng phối hợp, hướng dẫn chính quyền các địa phương, các điểm, khu du lịch tổ chức tốt lễ hội tiêu biểu của 3 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa. Những lễ hội được Bạc Liêu chọn để phục vụ phát triển du lịch là: lễ hội Dạ cổ hoài lang (13 - 15/8 âm lịch), lễ hội Quán âm Nam Hải (21 - 23/3 âm lịch), lễ hội Nghinh Ông Đông Hải (10/3 âm lịch), lễ hội Kỳ yên (tháng Giêng), lễ hội Oóc-om-bóc (10/5 âm lịch)… Với sự nỗ lực của ngành chức năng, chính quyền địa phương và các điểm du lịch, nhiều lễ hội được tổ chức thường xuyên đã góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống tinh thần cộng đồng dân cư và quảng bá hình ảnh Bạc Liêu đến với bạn bè gần xa.
Lễ hội Dạ cổ hoài lang - một trong những lễ hội tiêu biểu của Bạc Liêu. Ảnh: H.T
Mặc dù có đóng góp vào sự phát triển chung của lĩnh vực du lịch, nhưng du lịch lễ hội chưa mang lại hiệu quả cao, cũng như chưa đáp ứng sự kỳ vọng của tỉnh với loại hình này. Không thể phủ nhận, lễ hội đã mang về cho Bạc Liêu lượng khách rất lớn mỗi năm. Tuy nhiên, lượng khách này lại không mang về nguồn thu dịch vụ tương xứng. Như lễ hội Quán âm Nam Hải là một trong những lễ hội tâm linh nổi tiếng, thu hút khoảng 15.000 lượt khách từ Nam chí Bắc. Đa phần, khách đến với lễ hội đều là khách hành hương nên thời gian dừng chân ở Bạc Liêu khá ngắn. Dù có ở lại qua đêm, du khách cũng thường tìm đến các nhà nghỉ có giá bình dân xung quanh điểm diễn ra lễ hội. Mặt khác, đây là một lễ hội về tín ngưỡng Phật giáo nên không có các hoạt động đặc sắc để du khách tiêu tiền. Hay nói cách khác, khách du lịch không có cơ hội để mua sắm tiêu xài vào các dịch vụ khi tham gia lễ hội Quán âm Nam Hải.
Trong khi đó, các lễ hội khác dù mang giá trị văn hóa rất độc đáo nhưng không thu hút được du khách ngoài tỉnh. Đơn cử là lễ hội Oóc-om-bóc với nhiều hoạt động hấp dẫn như: đua ghe Ngo, lễ cúng trăng, thả đèn nước, biểu diễn nghệ thuật truyền thống… cũng chỉ là ngày vui của đồng bào dân tộc Khmer; hay lễ hội Nghinh Ông Đông Hải chỉ có ngư dân miền biển về dự.
Du lịch lễ hội là một trong những sản phẩm chính của ngành “công nghiệp không khói” Bạc Liêu. Hiện nay, nhiều địa phương trong khu vực đã và đang khai thác tốt giá trị lễ hội để phát triển du lịch như: lễ hội Bánh dân gian Nam bộ (TP. Cần Thơ), lễ hội Oóc-om-bóc (Sóc Trăng), lễ hội vía Bà Chúa Xứ (An Giang)… Chính vì vậy, Bạc Liêu cần nỗ lực nhiều hơn trong việc phát huy vai trò lễ hội nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đa dạng hóa hệ thống sản phẩm du lịch, quan trọng hơn là phát triển doanh thu dịch vụ.
Theo ông Du Tố Tuấn, Giám đốc Công ty Du lịch Vietravel - Chi nhánh Bạc Liêu thì tỉnh cần liên kết, cung cấp thông tin lễ hội với các công ty du lịch lữ hành trong và ngoài tỉnh để doanh nghiệp chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch quảng bá và mời gọi du khách. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lễ hội; tổ chức nhiều hoạt động nhằm tăng sức hấp dẫn cho lễ hội.
HỮU THỌ