Kinh tế tập thể (KTTT), mà chủ đạo là hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT), là xu hướng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay, là thành phần quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền vững... Ðặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, KTTT càng trở nên quan trọng, đây là nhân tố cốt lõi, gắn kết quá trình sản xuất và kinh doanh của nông dân với nhu cầu của thị trường.
Tuy nhiên, các loại hình KTTT trên địa bàn tỉnh hiện vẫn chưa phát huy đúng tiềm năng, thế mạnh vốn có, nhất là lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa thể hiện đầy đủ vai trò, vị trí chủ lực của mình trong xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Do vậy, cần nhìn thẳng khi đánh giá để có hướng đi đúng.
Bài 1: Những HTX mang dáng vóc “gia đình”
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, khu vực KTTT tỉnh Cà Mau đã có những chuyển biến tích cực, xuất hiện ngày một nhiều HTX sản xuất năng động, linh hoạt, hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, các HTX, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, vẫn còn rất nhỏ về quy mô và yếu cả về chất lượng.
Hầu như ai cũng biết, KTTT là nơi liên kết những người sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, hợp sức, góp vốn tương trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Từ đó, cùng nhau chia sẻ nguồn lực, lợi ích, kinh nghiệm, tạo mối quan hệ hài hoà giữa các thành viên theo hướng liên kết cộng đồng, mở rộng hợp tác giữa thành phần KTTT với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, bản chất, giá trị và các nguyên tắc hoạt động này của KTTT thời gian qua vẫn chưa phát huy được khi thực tế đa phần các HTX, THT trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ và chất lượng hoạt động kém.
Nhỏ về quy mô
HTX, nhất là HTX nông nghiệp, là một trong những thành phần kinh tế quan trọng trong khu vực KTTT. Tuy nhiên, một thực tế cần phải nhìn nhận là đa phần các HTX vẫn còn yếu, cả về năng lực quản lý và khả năng tài chính; công nghệ, kỹ thuật và quy mô hoạt động nhỏ. Hoạt động chủ yếu nhờ vốn tự có nhưng vốn cũng rất ít, chủ yếu nằm ở tài sản cố định; năng lực cạnh tranh còn thấp; chưa thu hút được nhiều loại hình sản xuất trong xã hội tham gia. Từ đó, thu nhập kinh tế từ kết quả hoạt động của HTX nông nghiệp đem lại cho các thành viên không cao, tính hợp tác, tương trợ cùng giúp nhau và tham gia phát triển cộng đồng không mạnh; chất lượng quản lý, hiệu quả hoạt động chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển.
Kết quả khảo sát mới đây của Tiến sĩ Trần Minh Hải, Phó hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) là minh chứng rõ nhất cho những hạn chế trên. Theo đó, số HTX có thành viên dưới 10 hiện nay là 38,7% (khi mới thành lập có 50% và hiện tại có 38,7%); số HTX có từ 11-30 thành viên khi mới thành lập và hiện tại chiếm khoảng 38,8%; số HTX có trên 50 thành viên hiện tại chỉ khoảng 13,2%.
HTX Thuận Lợi (ấp Lung Trường, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời) là một trong những HTX được đánh giá làm ăn hiệu quả. Năm 2017, khi mới thành lập, HTX chỉ có 24 thành viên, nay tăng lên 38 thành viên. Tuy nhiên, theo ông Dương Thành Long (Uỷ viên Hội đồng Quản trị, Giám đốc HTX Thuận Lợi), dù vốn điều lệ tăng, từ 120 triệu đồng lúc ban đầu lên hơn 1 tỷ đồng như hiện nay, nhưng quy mô hoạt động HTX nhỏ, thành viên ít, sức cạnh tranh trên thị trường thấp, chưa tiếp cận được nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Từ đó, nguồn lực nội tại đầu tư các mô hình chưa đáp ứng đủ chi phí sản xuất, trong khi nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho HTX lại không có.
Tiến sĩ Trần Minh Hải nhận định: “Phần lớn các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh hoạt động ở khu vực xã và ấp là chính”. Cụ thể, 46,9% HTX có địa bàn hoạt động nhỏ hơn một ấp và 14,2% có quy mô hoạt động trong ấp; 9,9% có quy mô toàn xã. Số HTX có địa bàn hoạt động liên xã chỉ khoảng 14,2%, còn lại là hoạt động ở phạm vi từ 2 xã trở lên trong cùng một huyện. Không HTX nào có phạm vi hoạt động từ 2 huyện trở lên.
HTX đan đát Nguyễn Phích, huyện U Minh, nơi lưu giữ nghề truyền thống nhưng mức độ quy mô vẫn còn nhiều hạn chế.
Trong khi đó, tại một số tỉnh như Bạc Liêu, số thành viên trung bình của một HTX là 50 thành viên, tỉnh Trà Vinh 59 thành viên, An Giang 61 thành viên... tại tỉnh Tiền Giang, số thành viên trung bình của một HTX lên đến 247 thành viên; tỉnh Bến Tre 236 thành viên; tỉnh Ðồng Tháp khoảng 155 thành viên... Tiến sĩ Trần Minh Hải cho biết thêm, số lượng HTX của Cà Mau đứng thứ 3 ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nhưng lại xếp cuối cùng về số thành viên trung bình của mỗi HTX, trung bình chỉ có 16 thành viên.
Quy mô nhỏ dẫn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của các HTX hiện nay cũng là vấn đề cần được quan tâm. Mới đây, tại hội nghị về phát triển KTTT tỉnh Cà Mau, diễn ra vào ngày 29/3, đồng chí Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh, đánh giá, số thành viên trong một HTX hiện nay là quá ít, quá nhỏ, mang tính gia đình nhiều hơn. Tình trạng nhỏ lẻ như hiện nay tạo ra một thực tế tranh mua, tranh bán, chèn ép nhau.
Vóc dáng “gia đình” trong HTX nông nghiệp hiện nay còn được Tiến sĩ Trần Minh Hải chỉ ra ở yếu tố thành viên hội đồng quản trị của các HTX. Ông chỉ rõ, số thành viên hội đồng quản trị của HTX từ 3 thành viên trở xuống chiếm trên 58%; từ 4-7 thành viên chiếm 33%; từ 8 thành viên trở lên rất thấp. Ðặc biệt, nhiều HTX thành viên hội đồng quản trị cũng là thành viên trong gia đình.
Yếu về chất lượng
Tính đến tháng 2/2024, toàn tỉnh có 936 THT, 299 HTX và 2 liên hiệp HTX đăng ký hoạt động ở nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, số lượng HTX không hoạt động là 61 HTX, chiếm hơn 20%. Riêng đối với 179 HTX nông nghiệp được xếp loại trong năm 2022, chỉ có 8% loại tốt, 34% loại khá, 20% trung bình, còn lại là yếu kém. Ngoài ra, số HTX hoạt động hiệu quả theo phương thức gắn với chuỗi giá trị có ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất còn rất ít và chưa bền vững, rất nhiều HTX chưa đủ điều kiện để thụ hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là do bản thân HTX chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất, quản trị.
KTTT là nhân tố quan trọng để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá người dân làm ra, tăng hiệu quả kinh tế cho người dân, cho thành viên thông qua việc cùng làm để hoàn thành chuỗi liên kết cùng mua, cùng bán với đa dạng dịch vụ, đông đảo thành viên. Từ đó, HTX có thể là yếu tố chi phối thị trường, từ vật tư đầu vào cho đến đầu ra sản phẩm. Tuy nhiên, thời gian qua HTX trên địa bàn tỉnh chưa thể làm được điều này, bởi không chỉ thành viên ít mà dịch vụ của các HTX cũng khá đơn điệu.
Sự đơn điệu này thể hiện rõ nhất thông qua con số thống kê gần đây của nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Hải tiến hành. Theo đó, có đến 60,7% HTX nông nghiệp của tỉnh chỉ làm 1 dịch vụ, 17,9% HTX làm 2 dịch vụ và chỉ có khoảng 7,2% HTX triển khai cung cấp được từ 5-6 dịch vụ.
HTX lúa tôm Tân Bằng huyện Thới Bình là một trong những đầu mỗi để cung cấp vật tư đầu vào phục vụ xã viên cũng như trong tiêu thụ sản phẩm làm ra.
Ðây cũng là lời lý giải cho thực tế hiện nay, là vật tư đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp cứ ngày một tăng trong khi sản phẩm đầu ra của người dân thì không ổn định, có lúc xuống rất thấp. Và người chịu thiệt không ai khác chính là nông dân, sản xuất vô cùng cực khổ nhưng luôn bị chi phối và thiệt thòi. Câu chuyện đã diễn ra nhiều năm nay.
Ông Châu Trung Trực, Giám đốc HTX Nuôi trồng thuỷ sản Ðoàn Kết (ấp Tân Long, xã Tân Duyệt, huyện Ðầm Dơi) chia sẻ: “Bà con xã viên hiện nay khó khăn từ nhiều phía, dễ thấy nhất là giá vật tư đầu vào tăng cao trong khi giá tôm giảm và không ổn định. Cái khó lớn nhất hiện nay chính là nguồn vốn, thiếu vốn nên phải chấp nhận mua vật tư đầu vào giá cao, từ đó lợi nhuận rất thấp”.
Ðặc biệt, qua quá trình điều tra, khảo sát, Tiến sĩ Hải còn đưa ra con số khiến nhiều người bất ngờ, là có đến 59,7% HTX trên địa bàn tỉnh chưa bao giờ xuất hoá đơn VAT, chỉ có khoảng 24% HTX xuất được hoá đơn VAT khấu trừ (VAT cho doanh nghiệp) và 16,2% thuế VAT trực tiếp.
Không xuất được hoá đơn VAT khiến việc hợp tác giữa HTX và các thành phần kinh tế khác, nhất là doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của chính các HTX và thành viên.
Hiện nay, ngành tôm nuôi đã mở rộng quy mô nhưng diện tích liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm chỉ được khoảng 28.763 ha, chiếm 10,3% diện tích toàn tỉnh; ngành hàng lúa gạo có 44 liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với diện tích 7.135,7 ha, tổng sản lượng liên kết khoảng 32.738 tấn; ngành hàng gỗ có 2 liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với diện tích 128 ha, chiếm 3,1% diện tích khai thác... Về con cua, hiện nay người nuôi cua trên địa bàn tỉnh Cà Mau chủ yếu bán cho thương lái, họ thu gom về giao lại cho các đại lý phân phối, có rất ít hợp đồng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với các HTX, người nuôi.
Nguyễn Phú - Chí Diện
Bài 2: Thiếu sự trợ lực