Nhận định về văn chương, GS-TS Nguyễn Văn Hạnh, một nhà nghiên cứu văn học đầy tâm huyết đã từng nói: “Văn chương cũng như nghệ thuật không thể thay thế cho kinh tế, chính trị và những lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội. Nhưng ngược lại, cũng không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương trong việc giúp con người hiểu cuộc sống và hiểu chính mình, sống có tình thương, có đạo lý, có văn hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục, giả dối, để thăng hoa, để ước mơ, vươn đến chân - thiện - mỹ”. Nếu vậy thì, ở thời đại nào, văn chương cũng luôn cần thiết đối với con người.
Chúng ta biết đến văn chương từ khi nào? Từ sau khi lọt lòng mẹ, chưa tròn 1 tuổi! Văn chương đến với ta qua những lời ru, câu ca dao ngọt ngào mà bà và mẹ đã ru ta bên cánh võng. “Ầu ơ, gió mùa thu mẹ ru con ngủ/ Năm canh chày mẹ thức đủ vừa năm”, và biết bao câu ca dao đã chuyển thành lời ầu ơ, ví dầu, hát ru nghe tha thiết. Những nghiên cứu khoa học cho biết, lời ru con từ thuở ấu thơ ấy sẽ góp phần nuôi dưỡng đời sống tâm hồn, giúp trẻ nhỏ hình thành nhân cách đẹp đẽ. Những người phụ nữ hiện đại bây giờ ít hát ru con, nhưng nhiều người trong số họ cũng biết dùng điện thoại hoặc tivi để những lời hát ru ấy thay mình đưa con vào giấc ngủ.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (bìa trái) trao giải cho các tác giả đoạt giải cuộc thi bút ký văn học ĐBSCL lần thứ 6, năm 2016 - 2017. Ảnh: C.T
Lớn lên một chút, vào tiểu học, THCS, chúng ta lại tiếp xúc với văn chương qua những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Những sự tích Hòn vọng phu, Bánh chưng - bánh dày, Quả dưa hấu, trầu cau, những truyền thuyết Thánh Gióng, thần thoại Nữ Oa vá trời…, đã giúp ta rút ra những bài học đạo đức quý giá trong từng câu chuyện kể. Hay bước vào từng giai đoạn của văn học sau đó ở bậc THPT, chúng ta lại cảm nhận được thế nào là “học văn là học nhân” - học văn là học làm người. Đó là những bài học về lòng tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc qua những áng thiên hùng ca bất hủ như: “Nam quốc sơn hà” (không rõ tác giả, có người cho rằng của Lý Thường Kiệt), “Bình ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi), “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn)... Chúng ta còn được tiếp cận với tuyệt phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Dọc theo suốt cuộc đời truân chuyên của Kiều, chúng ta biết thấm thía, đồng cảm và nhận ra những bài học nhân văn sâu sắc để thêm yêu phận người hơn. Những “Chí Phèo”, “Lão Hạc” (Nam Cao); “Tắt đèn” (Ngô Tất Tố), “Số đỏ” (Vũ Trọng Phụng)… lại khiến ta đau với những nỗi đau đời, cười những nụ cười sâu cay, ứa lệ; hay những “Ánh trăng cuối rừng” (Nguyễn Minh Châu), “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài); những bài thơ về đất nước của các nhà thơ: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm..., cho ta yêu hơn dáng hình thiêng liêng của đất nước mình, thương sao con người Việt Nam chịu thương, chịu khó… Văn chương Việt Nam, dọc theo chiều dài thời gian, rộng lớn về không gian như vậy, lại đa dạng về thể loại, thể tài, phong phú về chủ đề tư tưởng vẫn luôn hướng đến chân - thiện - mỹ. Học văn, vì vậy chính là học để làm người, làm người tốt hơn!
Đó là chuyện xưa, thời hiện đại, văn học còn có tác dụng “học làm người” nữa không, học văn để làm gì? Xin trích dẫn ý kiến của GS-TS Nguyễn Văn Hạnh khi nói về tầm quan trọng của văn chương thời hiện đại: “Tham gia vào hoạt động văn chương, cho dù là sáng tác hay thưởng thức, người ta đều được “thanh lọc” tâm hồn, ít nhiều sẽ trở nên tốt hơn, nhân ái hơn. Trong thế giới ồn ã, xô bồ hiện nay, khi con người luôn bị lôi ra bên ngoài, bị cuốn vào đám đông và bị nhu cầu vật chất cám dỗ dữ dội, thì thi ca, văn chương lại càng cần thiết. Tiếp xúc với văn thơ, con người có điều kiện giao lưu với những giá trị tinh thần, suy ngẫm, chiêm nghiệm về những vấn đề nhân bản, nhân văn, không phải giữa đám đông, hay trong lúc bận rộn bởi bao điều rắc rối, phiền toái ở đời này, mà tương đối thanh thản, ở tư thế một mình, chỉ riêng mình trò chuyện với tác giả, riêng mình đối diện với lương tri, với cái phần người của chính mình. Những khoảnh khắc đó thật đáng quý cho con người trong thời buổi này để bảo tồn và phát huy phẩm giá và năng lực làm người”.
Nhưng đăng đàn văn chương bây giờ hiếm có những cây bút tên tuổi, những tác phẩm mang dấu ấn thời đại như thời của những nhà văn cách mạng lẫy lừng cận - hiện đại của thế kỷ XX. Ở khu vực ĐBSCL, những cuộc thi bút ký văn học, truyện ngắn cấp khu vực được các hội, liên hiệp hội VH-NT luân phiên tổ chức vẫn có những tác phẩm xuất sắc; nhưng tìm một nhà văn nổi trội và để lại dấu ấn trong tác phẩm cho đồng bằng thì quá hiếm hoi! Một người trẻ và một hiện tượng văn học và bản thân người viết cho rằng chị vẫn giữ được “phong độ” trong những tuyển tập của mình, đó là nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (tỉnh Cà Mau). Những tuyển tập của chị như: “Cánh đồng bất tận”, “Yêu người ngóng núi”, “Đong tấm lòng”… cứ tái bản có khi đến hơn chục lần vẫn được độc giả đón mua. Đọc văn chị, dễ nghiệm ra rằng muốn viết văn chương, trước hết đó phải là một tâm hồn nhạy cảm, từ những cảm xúc chân thành sẽ cho những câu chữ chân thành và dễ chạm đến trái tim con người nhất! Ở tỉnh Bạc Liêu cũng chỉ mỗi nhà văn Phan Trung Nghĩa với sứ mệnh gánh nghiệp văn chương của địa phương. Nhưng gần đây, anh cũng ít đăng đàn với những tác phẩm văn chương mới. Trong khi đó, phong trào văn chương nói chung, thơ ca Bạc Liêu nói riêng vẫn âm ỉ và tự phát ở các đội, nhóm, câu lạc bộ thơ, nhạc… Nâng cấp Chi hội Văn học thành Hội Văn học (thuộc Liên hiệp các Hội VH-NT tỉnh) thì vẫn còn nhiều khó khăn.
Khơi gợi niềm đam mê văn học và cảm hứng học văn cho các em học sinh có lẽ là trách nhiệm của các thầy cô - dạy bằng niềm đam mê và cảm hứng trao truyền. Gầy dựng phong trào sáng tác ở các câu lạc bộ, ở Chi hội Văn học và tính toán đến việc nâng cấp thành Hội… Cộng tất cả những việc làm đó may ra tương lai sẽ tìm kiếm được và đào tạo những nhân tố ấy trở thành những nhà văn thực thụ, trẻ tuổi để nối nghiệp văn chương tỉnh nhà, góp từng viên gạch nhỏ để xây dựng nền văn học Việt Nam đương đại. Giúp giới trẻ tiếp xúc rồi biết say mê văn chương để sống có văn hóa, có tình thương hơn cũng đã là thành tựu khi nói về văn chương thời hiện đại.
Cẩm Thúy

Truyền hình







Xem thêm bình luận