ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 16:11:43
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lạt mềm buộc chặt

Báo Cà Mau

Lạt dừa dùng để lợp nhà, vừa chặt, vừa chắc và bền bỉ.

Thằng con trai đọc sách, gặp câu tục ngữ lạ, nó chạy lại hỏi mẹ:

- Lạt mềm buộc chặt nghĩa là gì vậy mẹ?

Mẹ nó cười, nụ cười thật tươi rồi bảo:

- Hỏi ba con kìa!

Thằng nhỏ chạy sang bên này, mẹ nó nhìn theo, mắt hấp háy đầy ngụ ý.

Tôi lấy “sở học” của mình, cố giảng giải cho thằng con nghĩa của câu tục ngữ giàu hình tượng ấy một cách dễ hiểu và trực quan nhất theo khả năng nhận thức của nó. Sẵn nhớ lại chuyện cũ, tôi kể cho con nghe về thời thơ ấu của mình, với những kỷ niệm gắn liền với cọng dây lạt, thứ xa lạ với đám con nít và không ít người trẻ bây giờ.

Hồi còn tiểu học, nghỉ hè, thỉnh thoảng ba má lại cho tôi theo về thăm ngoại. Hình ảnh đầu tiên tôi thấy khi xuồng cập bến nhà ngoại, mười lần như một là ông ngoại đang ngồi chẻ lạt dừa bên hè. Ngoại tóc bạc phơ, búi củ hành, tay cầm cây mác cán dài chẻ lạt. Bên cạnh ông là đống bập bè to và mớ lạt dừa chẻ dở. Trong gian bếp nhà ngoại, có nhiều bó lạt dừa lớn, để dành lợp nhà, lợp chuồng trâu, chuồng heo… hàng xóm có ai mua thì ngoại cũng bán.

Ðược ở chơi vài ngày, tôi hay lân la theo ngoại đi xắn bập bè về, ngồi coi ngoại chẻ lạt. Mớ nào xong thì giúp ông ôm ra sân phơi, chiều lại gom vô bó lại, trông như những bó nhang khổng lồ.

Nhà tôi ngày ấy còn nhiều dừa nước trong các con mương vườn và dọc bờ sông. Ba má và các anh chị tôi cũng hay chẻ lạt dừa, lớp xài, lớp để dành.

Nhà xa chợ, dây chạc vừa hiếm, vừa khó mua thì những bó dây lạt rất hữu dụng với nhà nông. Nhà nào cũng chẻ ít nhiều dùng để buộc đồ, lợp nhà, bó mạ… Chất liệu để làm lạt rất phong  phú như cà bắp, bập bè của cây dừa nước; dây lác, lớp vỏ mỏng trên sóng lá dừa tươi, hay dây choại (mà bà con quen gọi là “dây chại”). Hồi nhỏ, ở nông thôn hay thấy các xuồng bán dây choại khô làm lạt, tôi đoán họ là dân cư từ vùng rừng ra. Dây choại già được phơi khô rồi cột thành từng bó, xoắn chặt vào nhau như những bím tóc đỏ au, to bằng bắp chân người lớn. Ba tôi hay mua dây choại, để dành bện những tấm đăng bằng sậy để đặt đó bắt tôm, cá dưới sông hay trong các mương vườn. Dây choại cũng có thể đan lọp, đan bống đuổi chuột và nhiều vật dụng hữu ích trong nhà. Tuy dây lạt có nhiều loại, nhưng phần lớn đều cứng và khá giòn, thứ duy nhất được dùng để lợp nhà là lạt dừa, bởi thứ lạt này mềm, khi buộc vừa chặt, vừa chắc và bền bỉ.

Bà con ở nông thôn xưa phần lớn lợp nhà bằng lá dừa nước. Nhà lá ở thì mát mẻ, nhưng chỉ vài ba năm là hư, phải thay lá mới. Khi lớp lá trên mái nhà bắt đầu mục, bong ra từng mảng trôi theo nước mưa, làm nước chứa trong lu, mái chuyển màu sầm sậm là cả nhà rục rịch chuẩn bị lá lợp mới và công việc không thể bỏ qua là chuẩn bị mớ lạt dừa để lợp nhà.

Sau khi đốn lá dừa nước đem phơi, những chiếc bập bè lớn, đẹp và ít bị lỗi được xắn, gom về.

Bập bè khoác một lớp “áo” màu nâu sẫm bên ngoài, tuy mỏng nhưng rất cứng cáp, kế đó là lớp thịt mềm, trắng nõn bên trong. Vỏ dừa nước được róc ra sao cho vừa có phần “áo”, vừa có phần thịt với tỷ lệ cân đối, sau đó dùng dao nhọn (thường là mác vót) chẻ thành những sợi mỏng cỡ phân nửa ngón tay út rồi đem phơi.

Lạt dừa phơi nắng vài ngày thì lớp thịt héo lại, cọng lạt teo còn chừng phân nửa kích cỡ ban đầu, tức bằng chiếc đũa ăn là có thể sử dụng được. Chiều dài cọng lạt tuỳ theo kích thước cái bập bè, nhưng thường từ 5-7 tấc.

Ðể lợp một căn nhà cần rất nhiều dây lạt dừa, có khi đến vài bó lớn. Lạt dừa mềm mại, có thể dễ dàng quấn được nhiều vòng. Ðuôi lạt cứng, đâm nhẹ là xuyên qua lớp lá. Ngoài ra, bề mặt lạt nhám, kết hợp với mặt tiếp xúc sần sùi của lá dừa và đòn tay sẽ tạo thành những mối buộc rất chắc chắn. Ngoài lợp mái nhà, lạt dừa còn dùng để dừng vách, buộc nối các đầu cây gỗ với nhau. Lạt dừa càng mềm, dẻo thì mối buộc càng chặt, không làm tốc mái nhà hay bung vách mỗi khi mưa to gió lớn. Nếu lạt dừa phơi quá khô, chỉ cần phun vào bó lạt ngụm nước là được.

Nhờ đặc tính mềm, dẻo mà lạt dừa được nhà nông ưa chuộng. Thu hoạch xong vụ mùa, lúa hột vô bao hay gạo đi chà về thì cột miệng bao chắc chắn phải dùng lạt dừa.

Gần Tết, nhà nào làm heo chia thịt, khách ra về ai cũng cầm lủng lẳng mớ thịt, được xiên bằng cọng lạt dừa quen thuộc.

Tuổi thơ tôi gắn bó với những ngày theo người lớn đi đốn bập bè, rồi bè chúng dưới ao, đưa về nhà. Khi người lớn làm việc, tụi con nít tranh thủ tìm hớt cá lia thia, hoặc đốn những quày dừa nước vừa ăn, chẻ ra thưởng thức tại chỗ.

Bập bè đem về, sau khi đã róc vỏ lấy nguyên liệu làm lạt, phần thân bỏ đi, đám trẻ chúng tôi tận dụng cắt ra tạo hình thành súng ngắn, súng dài, lựu đạn… rồi chơi trò đánh trận giả, đuổi bắn nhau. Hôm nào rảnh rỗi, cả đám ngồi tỉ mẩn cắt cắt, ghép ghép bập bè vụn thành những mô hình ngộ nghĩnh như rô-bốt, thuyền buồm, tàu chiến, máy bay… mà phổ biến nhất là những chiếc ca nô, rồi buộc dây, dùng cây kéo trên mặt nước đánh nhau loạn xạ. Những cái bập bè còn nguyên dư ra, chúng tôi dùng cây đóng xiên vào nhau làm bè để bơi trên sông.

Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, chúng tôi không biết lợp nhà thì giúp người lớn kéo lá, đưa lạt. Chính những ngày lao động ấy đã giúp hình thành vốn sống quý báu sau này, mà câu chuyện “lạt mềm buộc chặt” cũng từ đó mà ra, không cần ai giải thích. Tất nhiên, với độ tuổi của những đứa trẻ con, chúng tôi chỉ hiểu câu tục ngữ ấy theo nghĩa đen, chính kinh nghiệm sống sau này, rồi khi đã lập gia đình, có con… khiến ý nghĩa sâu xa của câu “lạt mềm buộc chặt” dần ngấm vào người lúc nào không rõ.

Nhà lá ít đi, đồng nghĩa với người ta ít sử dụng dây lạt hơn, lạt dừa cũng không được mấy ai nhắc tới. Nhiều gia đình nông thôn cất nhà lá, dùng các loại dây công nghiệp để lợp, có vẻ tiện dụng hơn mà lại khỏi mất công đi chẻ lạt dừa. Hôm rồi, tình cờ tạt qua chợ Cơi Năm, tôi thấy vài tiệm tạp hoá còn bán lác đác mấy bó lạt dừa cũ mốc, có lẽ chúng đã nằm đó chờ khách lâu rồi. Tuy không còn phổ biến như xưa, nhưng những bó lạt dừa vẫn còn ít nhiều hữu dụng, tôi tin thế.

Những ngày giãn cách xã hội, áp lực việc làm, những lo toan cơm áo gạo tiền khiến tâm lý con người dễ dàng bị tác động tiêu cực. Cáu bẳn, cãi vã… thỉnh thoảng lại xảy ra, khi đó rất cần trong nhà có một cái đầu bình tĩnh để giải quyết ổn thoả. Xử lý việc nhà theo tinh thần “lạt mềm buộc chặt” trong trường hợp này là vô cùng cần thiết. Tôi vốn nóng tính, việc bà xã “đá quả bóng” giải thích câu tục ngữ cho con sang phần sân của tôi cũng có cái lý, rất tinh tế và thâm thuý của cô ấy.

Ngẫm lại, trong thời điểm khó khăn, có gần gũi bên nhau, cùng nếm trải và vượt qua, người ta mới thấy giá trị của tình thân, của gia đình, rồi quê hương to lớn thế nào. Những thứ ấy, trong cuộc sống ồn ào, vội vã, có thể lúc nào đó chúng ta xem nhẹ, hoặc lãng quên đi, nhưng khi có dịp nhìn lại mới thấy đó là những điều thiêng liêng nhất, cần chung tay gìn giữ.

Gia đình, người thân, quê hương là những sợi lạt mềm, nhưng lại buộc ta rất chặt.

Và ta sung sướng với “sự ràng buộc” đó!

Cà Mau, ngày 1/9/2021

 

Tuấn Ngọc

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.