“Được mùa - rớt giá” là thách thức mà nông dân đang phải đương đầu trong thời gian qua. Thậm chí, giá bán nông sản có khi còn thấp hơn nhiều so với giá trị sản xuất. Nhiều mặt hàng nông sản chủ lực của địa phương vẫn chưa tìm được giải pháp khơi thông đầu ra.
Dồi dào nguồn nông sản
Những năm gần đây, các mặt hàng nông sản Bạc Liêu ngày càng tăng về số lượng lẫn chất lượng. Diện tích gieo trồng lúa thực hiện năm 2013 ước tính gần 180.000ha, sản lượng ước tính 975.000 tấn (tăng 17,55% so với năm 2008). Sản lượng lúa trên không chỉ đảm bảo vững chắc lương thực trong tỉnh mà còn cung cấp cho thị trường trên 400.000 tấn lúa/năm. Đây là kết quả của sự đầu tư về thủy lợi, giống mới và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
![]() |
Nông dân huyện Hòa Bình bán lúa cho thương lái. Ảnh: L.D |
Tuy nhiên, với sản lượng nông sản đang có chiều hướng tăng dần về chất lượng lẫn số lượng thì so với việc tiêu thụ dường như đang có sự lệch pha. Người nông dân đang đối mặt với việc nai lưng ra làm để tăng sản lượng thì lại càng thua lỗ do giá bán thấp, chi phí đầu vào lại tăng.
Chông chênh tìm đầu ra
Thị trường tiêu thụ vẫn là bài toán khó dành cho nông dân. Nông dân mua vật tư nông nghiệp, thuốc thú y thủy sản với giá mỗi vụ mỗi tăng, trong khi bán sản phẩm với giá bấp bênh, lại thường bị thương lái ép giá.
Cái khó dễ thấy nhất ở thị trường nông sản Bạc Liêu là chỉ có một công ty đủ tiêu chuẩn thu mua, xuất khẩu gạo nên chỉ tiêu của công ty này chỉ mua tại Bạc Liêu hơn 6.000 tấn gạo/vụ (khoảng 10% sản lượng nông dân Bạc Liêu làm ra). Như vậy, số lượng còn lại vẫn do nông dân loay hoay tìm thị trường tiêu thụ. Ở nhiều nơi, nông dân và các tổ chức của nông dân (hợp tác xã, tổ hợp tác, hiệp hội...) vẫn chưa biết các chính sách về tiêu thụ sản phẩm. Những điển hình liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp về sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ thông qua hợp đồng chưa được phổ biến và nhân rộng.
Vấn đề “nóng” nhất hiện nay của thị trường xuất khẩu thủy sản là sự sụt giảm ở các thị trường chủ lực như Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc… Đồng thời, cơ quan nhập khẩu kiểm tra rất chặt chẽ chất kháng sinh Enrofloxacin trong tôm nhập khẩu có xuất xứ từ Việt Nam. Do đó, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản lo lắng sẽ khó “giao dịch” với các thị trường lớn. Đơn cử như Công ty Âu Vững (huyện Giá Rai), với hơn 20% sản lượng thủy sản xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, đây là nguồn lợi nhuận lớn của công ty. Song, hiện nay, việc tiếp cận thị trường Nhật Bản là điều rất khó khăn. Vì vậy, hàng của công ty chủ yếu xuất khẩu qua Trung Quốc, Úc… Với tình hình này, dù năm nay nông dân có thể trúng tôm, nhưng sẽ khó trúng giá. Còn doanh nghiệp thì đang gặp khó khăn lại phải đối mặt với thách thức mới!
Bế tắc trong giải pháp
Trước đây, đã từng có giải pháp cho vấn đề đầu ra hàng nông sản. Một trong những giải pháp khiến nông dân trông đợi là Quyết định 80/2002/QĐ-TTg (được Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 24/6/2002) với nội dung: khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa với người sản xuất (hợp tác xã, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hóa để phát triển sản xuất ổn định, bền vững. Sự liên kết “4 nhà” (nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và Nhà nước) trong việc tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng là một chủ trương rất hay, song, đến nay vẫn chưa thể thực hiện. Phải chăng sự tách rời của những mối liên kết trên chính là nguyên nhân của bế tắc trong tiêu thụ sản phẩm?!
Hoàng Uyên