Thứ ba, 16-12-25 22:32:59
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người Trưởng Tiểu ban Giáo dục huyện Tư Kháng ngày ấy

Báo Cà Mau Xứ dừa - xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre - là nơi cậu bé Trần Minh Chánh cất tiếng khóc chào đời trong gia đình có truyền thống yêu nước. Sau Hiệp định Genève, chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm ra sức khủng bố những người kháng chiến cũ, gia đình anh vì thế phải "điều lắng" về xã Tân Thuận, để tránh sự khủng bố của giặc.

Xứ dừa -  xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre -  là nơi cậu bé Trần Minh Chánh cất tiếng khóc chào đời trong gia đình có truyền thống yêu nước. Sau Hiệp định Genève, chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm ra sức khủng bố những người kháng chiến cũ, gia đình anh vì thế phải "điều lắng" về xã Tân Thuận, để tránh sự khủng bố của giặc.

Cuối năm 1954, người thanh niên 23 tuổi ấy là nòng cốt thanh niên của ấp Lưu Hoa Thanh, xã Tân Thuận, huyện Tư Kháng. Những năm ấy, lực lượng cách mạng còn ở lại miền Nam vẫn tiếp tục hoạt động đợi ngày tổng tuyển cử. Các trường lớp vẫn tổ chức dạy chữ cho học sinh. Mặc dù địch hăm doạ, bắt bớ nhưng thầy cô luôn được Nhân dân chở che, bảo vệ. Chúng tổ chức bắt cóc những cán bộ “nằm vùng” ở lại miền Nam hoạt động thì Nhân dân tổ chức giải cứu… Anh hăng hái bất chấp hiểm nguy thực hiện tốt công tác của tổ chức phân công.  Năm 1955, anh được kết nạp Ðoàn, hoạt động công khai trên quê hương thứ hai của mình với bí danh là Năm Báu. Anh khéo léo hoạt động, đảm bảo bí mật, tránh những cặp mắt cú vọ của chính quyền Diệm dựng lên…

Anh Trần Minh Chánh và vợ Trương Hồng Lệ.

Nhưng  với mưu đồ xâm lược miền Nam, bằng thủ đoạn mị dân, khủng bố, đến chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” chỉ trong vòng 2, 3 năm sau Hiệp định Genève, Mỹ - Diệm gây không biết bao tội ác trên cả miền Nam. Anh Trần Minh Chánh là nạn nhân của chiến dịch ấy. Cuối năm 1955, anh bị địch bắt giải qua các nhà tù, rồi cuối cùng chúng giam anh vào Nhà tù Phú Lợi.

Chế độ khắc nghiệt của Nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ, ăn gạo mục cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… Sống bẩn thỉu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng cọp, lao động khổ sai, bệnh tật không thuốc chữa trị và những đòn điều tra đánh đập dã man… đến dụ dỗ mua chuộc nhưng anh vẫn giữ vững lập trường không khai báo dù chỉ nửa lời. Cơ sở cách mạng nơi anh hoạt động đảm bảo vẹn toàn. Không moi được gì ở anh, chúng không có lý do để tiếp tục giam cầm nên buộc phải thả anh vào cuối năm 1957.

Như chim sổ lồng, cầm trong tay giấy trả tự do, anh trở về Bến Tre một thời gian ngắn rồi trở lại xã Tân Thuận bằng con đường hợp pháp. Anh tìm về  tổ chức và được phân công hoạt động bí mật phụ trách đầu ngoài ấp Tân Ðức của xã Tân Thuận với bí danh là Năm Nguyệt.

Năm 1958-1959, là thời kỳ đen tối nhất ở miền Nam. Sau khi Luật 10/59 được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố. Chúng kêu gọi những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Dù vậy, hệ thống tổ chức bí mật của ta vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu tình chính trị gây sức ép lên chính phủ Ngô Ðình Diệm. Cũng chính thời gian này, anh Năm Nguyệt được phân công làm Phó Bí thư Xã đoàn phụ trách công tác giáo dục xã (vì ngay trong các làng rừng đều có các lớp học văn hoá, các xóm ấp đều cần có trường học…).

Ðồng Khởi 1960, anh tiếp tục làm Phó Bí thư Xã đoàn, Uỷ viên Ban Tuyên huấn xã, phụ trách Trưởng Ban Giáo dục xã Tân Thuận. Cuối năm 1960, anh được kết nạp vào Ðảng tại Chi bộ ấp Tân Bình với bí danh Năm Thức. Là Uỷ viên Ban Tuyên huấn xã, anh trực tiếp chăm lo công tác giáo dục và văn nghệ tại xã Tân Thuận. Cuối năm 1961, anh được đi học khoá Quản lý giáo dục của Khu Tây Nam Bộ tại kinh Tuần Thơm, xã Vĩnh Hoà, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Rạch Giá. Nắm được chuyên môn về quản lý giáo dục, anh trở về địa phương đưa phong trào giáo dục xã Tân Thuận phát triển: mở các lớp 3 và 4 phổ thông tập trung; từng ấp có lớp 1 và 2; phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hoá cũng được thực hiện khắp xóm thôn đến cuối năm 1962.

Từ đầu năm 1963, Huyện uỷ Tư Kháng rút anh lên huyện, cũng là năm anh chị có được niềm vui đón đứa con trai đầu lòng Trần Quốc Trung. Anh được phân công làm Uỷ viên Ban Tuyên huấn huyện Tư Kháng, Trưởng Tiểu Ban Giáo dục huyện. Những năm này, Tư Kháng mở liên tục nhiều lớp đào tạo giáo viên dạy cấp I cho nhiều địa phương trong toàn huyện và các lớp phổ thông cấp II của huyện… (Ðịa bàn huyện Tư Kháng ngày ấy rất rộng, từ phía Nam sông Gành Hào, giáp sông Bảy Háp chạy xuống tận chót Mũi Cà Mau (gồm các huyện: Ðầm Dơi, Năm Căn và Ngọc Hiển ngày nay). Ðến năm 1964 mới chia huyện Tư Kháng thành 2 huyện: Tư Kháng và Duyên Hải…).

Ðầu năm 1969, anh được đi học Trường Sư phạm Tây Nam Bộ (tại lung Cá Trê, kinh Bông Súng, thuộc xã Tam Giang, huyện Năm Căn ngày nay). Anh mới học được thời gian thì mắt bị đau, được nhà trường đưa đi Dân y Khu chữa trị nhưng không khỏi nên anh phải nghỉ học trở về đơn vị cũ. Ngày tiễn đưa anh trở về quê, chúng tôi đứng bên ven rừng đước đưa anh xuống chiếc xuồng ba lá, tôi chúc anh mau lành bệnh mà lòng cảm thấy nao nao… Nào ngờ, lần chia tay đó là lần cuối cùng vĩnh viễn không gặp lại người anh đáng kính của tôi nữa…

Ngày 1/12/1969, địch đổ quân xuống kinh Sáu Thước, xã Tân Duyệt, huyện Tư Kháng, anh bị nổ trái và trút hơi thở sau cùng tại Trạm Y tế xã Tân Duyệt. Anh để lại cha mẹ già, vợ yếu với 2 đứa con thơ. Cháu Trần Quốc Trung chưa tròn 6 tuổi, cháu Trần Nghĩa Nhân mới hơn 1 tuổi.

Chị Năm (Trương Hồng Lệ) cùng 2 con thơ chịu cảnh đau thương, ly biệt. Lãnh đạo ngành giáo dục đã đưa chị Năm và 2 cháu vào công tác trong Trường Nội trú Ninh Bình - Cà Mau. Mẹ con chị được sống giữa tình yêu thương của những người đồng chí, của các em học sinh. Các cháu cũng có điều kiện học hành.

Anh Năm được an táng trong Nghĩa trang Liệt sĩ xã Tân Duyệt. Sau này, anh được các cháu đưa về yên nghỉ trong Nghĩa trang Liệt sĩ Tầm Vu (Hậu Giang), để gần gũi viếng thăm và chăm sóc mộ phần. 

Khi anh Năm hy sinh, chị Trương Hồng Lệ còn trẻ lắm, tuổi xuân đang độ thắm nồng, nhưng chị đã dành trọn quãng đời xuân sắc của mình để thờ chồng, nuôi con khôn lớn, dạy con trưởng thành. Vào năm 1982, chị mất, 2 cháu phải chịu cảnh mồ côi. Với tuổi đời 19 và 14, 2 anh em đã biết yêu thương, đùm bọc vượt lên số phận… Giờ đây, cháu Quốc Trung đã là Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Ðầu tư tỉnh Hậu Giang, cháu Nghĩa Nhân là chuyên viên pháp chế của Tổng Công ty Lương thực TP Hồ Chí Minh.

Anh chị Năm ơi, anh chị hãy vui lòng yên nghỉ khi 2 cháu đã thành  đạt và đã biết đi tiếp đoạn đường của anh chị còn bỏ dở!./.

Bài và ảnh: Huỳnh Thị Mỹ Huê

Khởi nghĩa Hòn Khoai - Biểu tượng anh hùng bất tử

Cách đây 85 năm, tại Hòn Khoai - đảo tiền tiêu phía Tây Nam Tổ quốc, diễn ra sự kiện lịch sử lừng lẫy: cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai, do Anh hùng Phan Ngọc Hiển lãnh đạo ngày 13/12/1940 giành toàn thắng.

Nhớ mái trường thời chiến

Giữa năm 1967, tôi được địa phương chọn đưa đi học Trường Bổ túc văn hoá tu nghiệp sư phạm huyện Trần Văn Thời, đào tạo giáo viên cho cơ sở.

Nghĩa tình son sắt, vượt thời gian

Mối quan hệ kết nghĩa giữa Ninh Bình (miền Bắc hậu phương) và Bạc Liêu (miền Nam tiền tuyến, nay là tỉnh Cà Mau) là biểu tượng mẫu mực của tình đoàn kết Bắc - Nam, hưởng ứng phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh do Trung ương Ðảng phát động năm 1960. Vượt qua khoảng cách địa lý, tình nghĩa keo sơn này được hun đúc và phát triển bền vững từ những năm tháng kháng chiến đến ngày nay.

Treo cờ dụ địch

Hướng tới ngày kỷ niệm Chiến thắng Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là (23/11/1963), tôi xin viết lại câu chuyện treo cờ dụ địch, ghi theo lời kể của đồng chí Châu Thái Biết, nguyên Tiểu đội trưởng Trinh sát đặc công, Tiểu đoàn 306 anh hùng (đã mất cách đây gần 3 năm), như sự tri ân những người trực tiếp làm nên chiến công bất tử trên mảnh đất Cà Mau giàu truyền thống cách mạng.

Thương về đồng đội

Những ngày tháng 10, mưa giăng đầy trời, lòng người cũng thường hoài niệm về quá khứ. Đội Văn nghệ Thị đội Cà Mau năm xưa, những cựu chiến binh tuổi quá lục tuần lại quây quần bên nhau cùng hát, múa, tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh.

Chiếc khăn rằn của má Út Bình 

Bằng duyên may lớn, tôi đã gặp được bà Nguyễn Thị Bình, bí danh Út Bình - “Bà má Chính uỷ”, tại căn nhà người thân của bà ở phường An Xuyên. 99 tuổi đời, 77 năm tuổi Đảng, bà Út Bình là tấm gương ngời sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đức hy sinh cao cả và tấm lòng người phụ nữ Nam Bộ nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung.

Nhớ năm tháng ấy

Hồi đó, tôi trốn nhà đi Thanh niên xung phong chớ ba má tôi đâu có cho. Tôi lên Xã đoàn Phong Lạc, gia đình đi theo lên kiếm bắt về. Lúc đó tôi đang ở nhà anh Lự, nghe ba má tôi lên kiếm, tôi chui vô rẫy mía trốn. Anh Hai, anh Sáu của tôi hy sinh năm 1970. Anh Ba tôi, tức anh Ba Phú, lúc đó đang công tác ở Huyện đoàn Cái Nước cho nên nhà đâu còn ai, tôi đi Thanh niên xung phong năm đó mới có 15 tuổi hà, ba má cưng tôi lắm!

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...