ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 1-6-24 11:30:14
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người Trưởng Tiểu ban Giáo dục huyện Tư Kháng ngày ấy

Báo Cà Mau Xứ dừa - xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre - là nơi cậu bé Trần Minh Chánh cất tiếng khóc chào đời trong gia đình có truyền thống yêu nước. Sau Hiệp định Genève, chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm ra sức khủng bố những người kháng chiến cũ, gia đình anh vì thế phải "điều lắng" về xã Tân Thuận, để tránh sự khủng bố của giặc.

Xứ dừa -  xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre -  là nơi cậu bé Trần Minh Chánh cất tiếng khóc chào đời trong gia đình có truyền thống yêu nước. Sau Hiệp định Genève, chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm ra sức khủng bố những người kháng chiến cũ, gia đình anh vì thế phải "điều lắng" về xã Tân Thuận, để tránh sự khủng bố của giặc.

Cuối năm 1954, người thanh niên 23 tuổi ấy là nòng cốt thanh niên của ấp Lưu Hoa Thanh, xã Tân Thuận, huyện Tư Kháng. Những năm ấy, lực lượng cách mạng còn ở lại miền Nam vẫn tiếp tục hoạt động đợi ngày tổng tuyển cử. Các trường lớp vẫn tổ chức dạy chữ cho học sinh. Mặc dù địch hăm doạ, bắt bớ nhưng thầy cô luôn được Nhân dân chở che, bảo vệ. Chúng tổ chức bắt cóc những cán bộ “nằm vùng” ở lại miền Nam hoạt động thì Nhân dân tổ chức giải cứu… Anh hăng hái bất chấp hiểm nguy thực hiện tốt công tác của tổ chức phân công.  Năm 1955, anh được kết nạp Ðoàn, hoạt động công khai trên quê hương thứ hai của mình với bí danh là Năm Báu. Anh khéo léo hoạt động, đảm bảo bí mật, tránh những cặp mắt cú vọ của chính quyền Diệm dựng lên…

Anh Trần Minh Chánh và vợ Trương Hồng Lệ.

Nhưng  với mưu đồ xâm lược miền Nam, bằng thủ đoạn mị dân, khủng bố, đến chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” chỉ trong vòng 2, 3 năm sau Hiệp định Genève, Mỹ - Diệm gây không biết bao tội ác trên cả miền Nam. Anh Trần Minh Chánh là nạn nhân của chiến dịch ấy. Cuối năm 1955, anh bị địch bắt giải qua các nhà tù, rồi cuối cùng chúng giam anh vào Nhà tù Phú Lợi.

Chế độ khắc nghiệt của Nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ, ăn gạo mục cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… Sống bẩn thỉu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng cọp, lao động khổ sai, bệnh tật không thuốc chữa trị và những đòn điều tra đánh đập dã man… đến dụ dỗ mua chuộc nhưng anh vẫn giữ vững lập trường không khai báo dù chỉ nửa lời. Cơ sở cách mạng nơi anh hoạt động đảm bảo vẹn toàn. Không moi được gì ở anh, chúng không có lý do để tiếp tục giam cầm nên buộc phải thả anh vào cuối năm 1957.

Như chim sổ lồng, cầm trong tay giấy trả tự do, anh trở về Bến Tre một thời gian ngắn rồi trở lại xã Tân Thuận bằng con đường hợp pháp. Anh tìm về  tổ chức và được phân công hoạt động bí mật phụ trách đầu ngoài ấp Tân Ðức của xã Tân Thuận với bí danh là Năm Nguyệt.

Năm 1958-1959, là thời kỳ đen tối nhất ở miền Nam. Sau khi Luật 10/59 được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố. Chúng kêu gọi những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Dù vậy, hệ thống tổ chức bí mật của ta vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu tình chính trị gây sức ép lên chính phủ Ngô Ðình Diệm. Cũng chính thời gian này, anh Năm Nguyệt được phân công làm Phó Bí thư Xã đoàn phụ trách công tác giáo dục xã (vì ngay trong các làng rừng đều có các lớp học văn hoá, các xóm ấp đều cần có trường học…).

Ðồng Khởi 1960, anh tiếp tục làm Phó Bí thư Xã đoàn, Uỷ viên Ban Tuyên huấn xã, phụ trách Trưởng Ban Giáo dục xã Tân Thuận. Cuối năm 1960, anh được kết nạp vào Ðảng tại Chi bộ ấp Tân Bình với bí danh Năm Thức. Là Uỷ viên Ban Tuyên huấn xã, anh trực tiếp chăm lo công tác giáo dục và văn nghệ tại xã Tân Thuận. Cuối năm 1961, anh được đi học khoá Quản lý giáo dục của Khu Tây Nam Bộ tại kinh Tuần Thơm, xã Vĩnh Hoà, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Rạch Giá. Nắm được chuyên môn về quản lý giáo dục, anh trở về địa phương đưa phong trào giáo dục xã Tân Thuận phát triển: mở các lớp 3 và 4 phổ thông tập trung; từng ấp có lớp 1 và 2; phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hoá cũng được thực hiện khắp xóm thôn đến cuối năm 1962.

Từ đầu năm 1963, Huyện uỷ Tư Kháng rút anh lên huyện, cũng là năm anh chị có được niềm vui đón đứa con trai đầu lòng Trần Quốc Trung. Anh được phân công làm Uỷ viên Ban Tuyên huấn huyện Tư Kháng, Trưởng Tiểu Ban Giáo dục huyện. Những năm này, Tư Kháng mở liên tục nhiều lớp đào tạo giáo viên dạy cấp I cho nhiều địa phương trong toàn huyện và các lớp phổ thông cấp II của huyện… (Ðịa bàn huyện Tư Kháng ngày ấy rất rộng, từ phía Nam sông Gành Hào, giáp sông Bảy Háp chạy xuống tận chót Mũi Cà Mau (gồm các huyện: Ðầm Dơi, Năm Căn và Ngọc Hiển ngày nay). Ðến năm 1964 mới chia huyện Tư Kháng thành 2 huyện: Tư Kháng và Duyên Hải…).

Ðầu năm 1969, anh được đi học Trường Sư phạm Tây Nam Bộ (tại lung Cá Trê, kinh Bông Súng, thuộc xã Tam Giang, huyện Năm Căn ngày nay). Anh mới học được thời gian thì mắt bị đau, được nhà trường đưa đi Dân y Khu chữa trị nhưng không khỏi nên anh phải nghỉ học trở về đơn vị cũ. Ngày tiễn đưa anh trở về quê, chúng tôi đứng bên ven rừng đước đưa anh xuống chiếc xuồng ba lá, tôi chúc anh mau lành bệnh mà lòng cảm thấy nao nao… Nào ngờ, lần chia tay đó là lần cuối cùng vĩnh viễn không gặp lại người anh đáng kính của tôi nữa…

Ngày 1/12/1969, địch đổ quân xuống kinh Sáu Thước, xã Tân Duyệt, huyện Tư Kháng, anh bị nổ trái và trút hơi thở sau cùng tại Trạm Y tế xã Tân Duyệt. Anh để lại cha mẹ già, vợ yếu với 2 đứa con thơ. Cháu Trần Quốc Trung chưa tròn 6 tuổi, cháu Trần Nghĩa Nhân mới hơn 1 tuổi.

Chị Năm (Trương Hồng Lệ) cùng 2 con thơ chịu cảnh đau thương, ly biệt. Lãnh đạo ngành giáo dục đã đưa chị Năm và 2 cháu vào công tác trong Trường Nội trú Ninh Bình - Cà Mau. Mẹ con chị được sống giữa tình yêu thương của những người đồng chí, của các em học sinh. Các cháu cũng có điều kiện học hành.

Anh Năm được an táng trong Nghĩa trang Liệt sĩ xã Tân Duyệt. Sau này, anh được các cháu đưa về yên nghỉ trong Nghĩa trang Liệt sĩ Tầm Vu (Hậu Giang), để gần gũi viếng thăm và chăm sóc mộ phần. 

Khi anh Năm hy sinh, chị Trương Hồng Lệ còn trẻ lắm, tuổi xuân đang độ thắm nồng, nhưng chị đã dành trọn quãng đời xuân sắc của mình để thờ chồng, nuôi con khôn lớn, dạy con trưởng thành. Vào năm 1982, chị mất, 2 cháu phải chịu cảnh mồ côi. Với tuổi đời 19 và 14, 2 anh em đã biết yêu thương, đùm bọc vượt lên số phận… Giờ đây, cháu Quốc Trung đã là Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Ðầu tư tỉnh Hậu Giang, cháu Nghĩa Nhân là chuyên viên pháp chế của Tổng Công ty Lương thực TP Hồ Chí Minh.

Anh chị Năm ơi, anh chị hãy vui lòng yên nghỉ khi 2 cháu đã thành  đạt và đã biết đi tiếp đoạn đường của anh chị còn bỏ dở!./.

Bài và ảnh: Huỳnh Thị Mỹ Huê

Hương tháng Năm dâng Bác

Hôm nay, ngày 19/5, kỷ niệm 134 năm ngày sinh Bác Hồ, cùng với cả đất nước, dân tộc, đất và người Cà Mau cùng nghiêng mình tưởng nhớ và thể hiện tấm lòng yêu kính Người vô hạn.

Tự hào di tích lịch sử quốc gia

Toạ lạc tại xã Hàm Rồng, Di tích Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ thuộc Di tích quốc gia “Các địa điểm thuộc Xứ uỷ Nam bộ - Trung ương Cục miền Nam”, giai đoạn cuối năm 1949 đến đầu năm 1955, là địa chỉ đỏ, điểm tham quan về văn hoá, lịch sử tiêu biểu của huyện Năm Căn.

Nhân dân Cà Mau nhớ Bác Hồ

Nhân kỷ niệm ngày sinh nhật Bác, 19/5, tôi xin ghi lại một số kỷ niệm về tình cảm của Nhân dân Cà Mau đối với Bác Hồ.

Biểu tượng lòng dân miền Nam với Bác

Trong kháng chiến chống Mỹ, đền thờ, phủ thờ Bác là “pháo đài niềm tin”, là biểu tượng lòng dân đối với Ðảng, với Bác Hồ, nhưng là cái gai trong mắt Mỹ - nguỵ. Vì vậy, kẻ địch luôn tìm cách dẹp bỏ bằng những trận càn quét, bắn phá. Nhưng chúng bất lực trước tinh thần bám trụ, bảo vệ và kiên quyết đấu tranh của Nhân dân ta.

Vinh quang bất tử

Mỗi câu chuyện từ những nhân chứng đi ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đều là những trang sử sống quý giá, sinh động, mà may mắn thay, hậu thế chúng tôi, những người không biết đến bom đạn chiến tranh còn có thể nghiêng mình chiêm ngưỡng.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần II: Diễn biến, kết quả của chiến dịch

Sau khi công tác chuẩn bị hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra thành ba đợt trong gần hai tháng. Với địa hình hiểm trở, việc kéo pháo vào tập trung tại trận địa đã vô cùng khó khăn.Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần III: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ - SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI - Phần I: Bối cảnh lịch sử, âm mưu của thực dân Pháp và sự chỉ đạo chiến lược của ta

70 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ (07.5.1954 - 07.5.2024) là chiến thắng vĩ đại đã ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX. Đây là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử... Ý nghĩa, tầm vóc, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bản anh hùng ca bất diệt của thời đại Hồ Chí Minh

Đúng ngày này 70 năm trước, bộ đội ta đã nổ những phát súng đầu tiên mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến công tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp mà ngay cả trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ II cũng không có tập đoàn cứ điểm nào mạnh bằng. Trải qua 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non (thơ Tố Hữu), bộ đội Việt Nam anh hùng đã vượt lên bao mưa bom, bão đạn và cắm lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Bác Hồ trao trên nóc hầm Đờ Cát, vào giữa tim con nhím Điện Biên Phủ, kết liễu số phận của nó.

Ðong đầy ký ức Ðiện Biên

Chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. 70 năm trôi qua, những người lính Bộ đội Cụ Hồ, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến từng tham gia Chiến dịch Ðiện Biên Phủ luôn tự hào về những năm tháng gian khổ nhưng đầy oanh liệt ấy.