(CMO) Tôi đến Cà Mau khi trời nhá nhem tối. Cảm giác lần đầu tiên đến mảnh đất cuối trời Tây Nam Tổ quốc thật háo hức vô cùng. Dẫu chỉ ở lại một ngày, một đêm và chỉ đến được Đầm Dơi nhưng trong tôi đã đong đầy bao cảm xúc.
Thật ra, đã rất nhiều lần tôi có ý định đến vùng đất ấy nhưng hết lý do này đến lý do khác làm tôi không thực hiện được ý định. Rồi một ngày cuối tuần nắng đẹp, người chị mà tôi vẫn hay gọi thân quen là chế, quê ở Tân Dân, Đầm Dơi, đã rủ tôi về. Không có quá nhiều thời gian để chuẩn bị hành lý, một quyết định bất ngờ, vội vã không nằm trong kế hoạch nên lại càng thôi thúc bước chân. TP Cà Mau đón tôi khi ánh nắng cuối ngày chỉ còn đọng lại những vệt màu sáng ánh cam lên nền trời, một cơn mưa ùa qua như thể mừng vui đón người khách phương xa lần đầu tiên ghé đến. Những cửa hiệu đã lên đèn, đông vui và nhộn nhịp. Tôi chạy qua cầu Huỳnh Thúc Kháng để về Đầm Dơi. Cơn gió nhè nhẹ mang hơi nước từ sông thổi lên mát mẻ, luồn qua những sợi tóc mai mỏng mảnh. Con đường nhỏ rẽ về Tân Dân đi giữa một bên là sông, một bên là những ngôi nhà bình yên đón gió sông thổi lên dìu dịu..
![]() |
Minh hoạ: M. Tấn |
“Người Cà Mau dễ thương vô cùng”, câu hát ấy vẫn luôn bên tôi khi mấy cuộc điện thoại từ người nhà chế cứ dồn dập hỏi chúng tôi đã về đến đâu. Ngôi nhà bật đèn sáng phía trước sân, cả nhà đã ngồi sẵn đợi chúng tôi về. Cha của chế ra cười nói vui vẻ, các anh chế dắt xe vô nhà. Mâm cơm đã chuẩn bị sẵn. Phải nói rằng, hơn một trăm cây số chạy xe đã tiêu tan mệt mỏi khi được mọi người thương yêu chờ đón như thế. Tôi ấn tượng với nhà bếp của gia đình chế. Có lẽ lâu lắm rồi tôi mới lại được bắt gặp gian bếp ấy. Một gian bếp được dừng bằng lá dừa nước. Cái bếp còn thơm mùi củi đước. Chiếc giường kê một góc để đủ rau củ nhà trồng, trái bí đao to tròn, chùm đậu đũa xanh non, dài mượt… Tôi bước đi trên sàn nhà lót gạch tàu mà nghe mát rượi bàn chân. Những ký ức tuổi thơ như thước phim quay chậm loáng thoáng ùa về. Ngày tôi còn nhỏ, nhà ngoại cũng lót gạch như thế, cũng gian bếp củi có mùi khói nồng nồng, cũng cái rế nồi đan bằng tre, cũng cái ghế đẩu để xung quanh chiếc bàn tròn… Anh chị của chế dọn sẵn mâm cơm với những món ăn ngon lành. Dĩa cá đối nuôi trong vuông mập mềm chiên vàng, bụng đầy ắp trứng. Gắp miếng cá trắng phau, chắc thịt, gói cùng ít rau càng cua giòn, xanh non chấm với nước mắm chua ngọt là kết hợp quá đỗi ngọt ngào. Vị ngọt của cá quyện hoà cùng vị giòn tươi non của rau càng cua hái trong vườn nhà, chút cay cay mằn mặn của nước mắm tỏi ớt khiến khoang miệng như được thết đãi bữa tiệc đậm đà. Kế bên dĩa cá chiên là tô thịt vịt kho gừng. Chỉ nhìn cái màu kho thôi đã thấy ngon đến không tả được. Thịt vịt màu nâu nâu, thấm gia vị và săn chắc, nước kho kẹo lại làm cho miếng gừng xắt sợi để kho cùng cũng đậm đà hương vị. Rồi tôi còn phải chừa bụng để ăn thêm tô canh bí đao bùi ngọt nấu với tép. À, thêm một chuyện nho nhỏ vui vui ở đây người ta không gọi là tép như quê tôi. Chế nói ở đây người ta gọi là con tôm, như tôm bạc, tôm càng…
Sáng hôm sau, tôi bị đánh thức bởi tiếng gọi của chế. Thì ra là chế nhớ tôi dặn có đi xổ vuông thì gọi tôi dậy đi cùng.Ở đây đa phần nhà ai cũng có vuông, không nhiều thì ít, gọi là nuôi thả lan. Thường thì nửa tháng xổ vuông một lần. Hôm nay tôi xuống không ngay ngày xổ nên chế lại chỗ miệng cống chỉ cho tôi biết và nói cách thức hoạt động. Miệng cống thường được đặt ở đầu vuông, hướng ra mé sông, có thiết kế đặc biệt để khi xổ nước từ vuông chảy ra thì phần lưới để sẵn sẽ đón được luồng tôm, cá, cua. Hai đứa con của người anh thứ tư chuẩn bị vỏ để tôi có dịp mục sở thị một chuyến dạo thăm vuông. Vuông là một hồ rộng người ta đào, thường để thả tôm, nuôi cua. Chế điệu nghệ mở dây, bơi chiếc vỏ chầm chậm ra vuông để tôi có dịp tận hưởng một sớm mai trong lành nơi đây. Chiếc vỏ thong thả lướt trên mặt nước, hai bên là những hàng đước xanh rì, mọc thẳng tắp. Chế nói tôi nghe về những công việc hàng ngày mà người làm vuông ở đây hay làm, những cực nhọc của nghề nuôi tôm, nuôi cua và cả niềm vui ngày xổ vuông, khi thấy những con tôm búng mình tanh tách. Hai đứa nhỏ hồn nhiên hỏi tôi: “Cô ơi có muốn ra hậu không?’’. Thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi, chế bảo: “Ý nó hỏi cưng có muốn bơi ra tận cuối cùng của vuông không đó”. Tôi mỉm cười, xoa đầu thằng bé rồi gật đầu. Chiều ý, chế đưa cây dầm cho tôi. Tôi loay hoay mãi mà chiếc vỏ cứ xoay vòng tròn. Hai đứa nhỏ thấy vậy cười tít mắt, vang vọng cả một quãng vuông lồng lộng gió.
Buổi sáng của tôi ở Đầm Dơi kết thúc bằng bữa cháo vịt thơm ngon ăn kèm gỏi chuối cây giòn ngọt. Những thành viên trong gia đình chế lại quây quần bên chiếc bàn tròn, kể tôi nghe bao câu chuyện hay về xứ sở này. Cha của chế là người quê gốc Quảng Nam nhưng vào đây lập nghiệp rồi mến quý nụ cười lành hiền của cô gái Tân Dân mà neo đậu cuộc đời ở lại xứ này. Lúc tôi trở về thành phố, chú còn chạy theo đưa mấy con cua chắc nịch. Chú nói, về đây không có gì làm quà, có ít cua cho tôi mang về thành phố ăn lấy thảo. Khi xe chạy được một đoạn, ngoái lại tôi vẫn thấy chú và hai anh chị cùng hai bé đứng vẫy tay dõi theo, tự dưng trong lòng dâng lên bao nỗi niềm cảm xúc. Tôi đang về lại với phố, ở nơi ấy tấp nập người xe, ngột ngạt khói bụi thị thành, không có những luồng gió sông mát rười rượi như ở đây. Tôi nhớ lời hứa với chú, với hai bé nhỏ con của anh chị Tư sẽ có lần lại về Đầm Dơi, về thăm gia đình chú, thăm lại những con đường giữa những hàng cây xanh mát. Ngắm mé biền nước ròng lên xuống, nghe tiếng ếch nhái đêm khuya tấu lên bản hoà ca bất tận ở vùng đất cuối trời Tây Nam Tổ quốc.
Người về lại nhớ Đầm Dơi vô ngần…./.
Phong Dương