Thứ ba, 16-9-25 06:18:09
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhà văn Anh Động: Người “chắp cánh”truyện cười bác Ba Phi

Báo Cà Mau Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày 3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày  3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi có biệt tài kể chuyện, không phải bác kể lại chuyện đời xưa, mà bác “tức cảnh thành lời”, nghĩa là khi có gợi ý, sự đề cập, khơi màu là bác có ngay câu chuyện về đề tài đó. Có người nhận xét: Bác Ba Phi nói dóc tài tình! Thật ra bác không nói dóc mà là phóng đại, nhân lên tới mức trào lộng từ những chuyện bình thường trở thành khác thường rồi “ngoa dụ” đến phi thường, nghe là cười vì sự cắc cớ, bất ngờ lại rất có duyên. Một điều khác biệt của truyện cười bác Ba Phi là không mang tính chỉ trích, mỉa mai, dè bĩu, lên án hay đả phá, mà tiếng cười trong truyện bác Ba Phi rất vô tư, hào sảng.

Nhà văn Anh Động bên góc sân vườn nhà.

Nhân vật trong truyện cười của bác là những động, thực vật trong rừng U Minh: cọp, hươu, nai, chồn, trăn, rùa, rắn, ếch, nhái, tràm, tre, dừa, mây, choại… cộng với bối cảnh và con người U Minh, bác Ba đã đưa những cái vô lý thành có lý để… cười. Những câu chuyện còn phản ảnh không gian sống của bác vừa trù phú về sản vật, vừa đầy ắp tình yêu thương giữa người và người, người với thiên nhiên, qua đó cho chúng ta hình dung sự thích nghi và cách đấu tranh sinh tồn của con người ở nơi hoang sơ để khai khẩn, định hình cộng đồng xã hội, đất rừng U Minh là nơi bác Ba đã gắn bó cả cuộc đời.

Những người tâm huyết 

Trong kháng chiến, nhiều cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân nông thôn có năng khiếu kể chuyện thế nào cũng “lận lưng” vài mẩu chuyện bác Ba Phi. Riêng các anh bộ đội đi qua những xóm làng, góp nhặt từ thực tiễn nên “dựng” thêm rồi gắn cho nó cái “mác” Ba Phi, thế là nó được lan toả, tạo tiếng cười sảng khoái, lạc quan khắp nơi.

Những “phiên bản” mới không ảnh hưởng gì đến cốt cách truyện cười bác Ba Phi mà còn làm phong phú cho kho tàng văn hoá dân gian quý báu ở vùng đất Cà Mau nói riêng và Nam Bộ nói chung. Nhà văn Anh Ðộng, tác giả Mỹ Hồng, Nhà báo Phan Anh Tuấn, Huỳnh Biên Cương, đồng chí cán bộ tuyên huấn Giang Văn Giang cùng rất nhiều “tác giả” không tên khác ở vùng giải phóng các tỉnh Tây Nam Bộ họ đã tập hợp từ nhiều nguồn, trong đó không loại trừ những truyện tiếu lâm được dân gian truyền khẩu rồi “Ba Phi hoá”. Vì vậy, họ có công đóng góp để làm giàu vốn quý ban đầu này. Riêng Nhà văn Anh Ðộng đã đầu tư khá công phu để viết thêm truyện mới, sưu tầm từ nhiều nguồn để in sách, viết kịch bản phim về đề tài bác Ba Phi.

Ông có thời gian sống và chiến đấu ở Cà Mau trên 15 năm nên truyện bác Ba Phi cũng đã ngấm vào máu thịt của ông. Những lần đi công tác đường xa, anh em thường kể cho nhau nghe truyện cười bác Ba Phi để quên đi mệt nhọc, thiếu thốn, hiểm nguy…, ông tích luỹ dần dần trong trí nhớ từng mẩu chuyện. Lúc này chưa ai ghi chép, chỉ truyền khẩu.

Truyền khẩu chính là "môi trường sống" của truyện cười bác Ba Phi, là món ăn tinh thần của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta ở các vùng giải phóng. Những năm công tác ở Tuyên huấn tỉnh, phụ trách việc chép tin đọc chậm trên Ðài Tiếng nói Việt Nam, viết bài cổ động để phát loa, hay ghi chép lại các trận đánh… đó là giai đoạn chập chững vào nghề viết lách của ông. Thời gian học ở trường viết văn Khu Tây Nam Bộ, ông có điều kiện đọc sách nhiều, nghiên cứu thêm văn hoá dân gian các vùng, miền, ngụ ngôn của các nước, ông suy nghĩ: nếu ngày xưa không ai ghi lại thì làm sao mình có sách mà đọc như hôm nay, nghĩ thế, ông nuôi ý tưởng viết truyện bác Ba Phi.

Trước khi bắt tay vào công việc viết mới, ông nghiên cứu kỹ, sâu sắc, khám phá nét đặc thù trong thế giới nhân vật của bác Ba Phi, ông thấy nó chuyển động và sinh tồn tự nhiên. Bác Ba không “nhân cách hoá” chúng như truyện ngụ ngôn mà bác khoác cho chúng dạng mới, tính cách mới, hành động mới, bắt nó chuyên chở cái ngộ nghĩnh, lém lĩnh, trừu tượng của ông. Anh Ðộng đã nhìn thấu cốt cách này và ghi nhận một cách tinh tế. Ông tập hợp những câu chuyện “gốc” rồi tiếp tục sáng tác những câu chuyện mới nhưng không tách rời cốt cách Ba Phi, nên anh giữ được cái đời thường trong truyện bác Ba Phi, không sắc sảo trong tranh luận, không đáo để trong ứng xử, đối phó mà nó va chạm nhau tếu táo, ngớ ngẩn, ngây ngô gây cho thiên hạ tiếng cười thoải mái, cười nôn ruột… rồi thôi, không đọng lại nỗi niềm chua chát, thất vọng hay hằn hộc. Nụ cười đó mới thật sự ngang bằng với “mười thang thuốc bổ”.

Người “chắp cánh” cho truyện cười bác Ba Phi

Quá trình tập hợp, sáng tác cũng ngót chục năm, lần đầu tiên truyện bác Ba Phi của Anh Ðộng được lên mặt báo dịp Xuân năm 1976 trên tờ Văn nghệ Sài Gòn, đó là câu chuyện “Con heo đi cày”. Sau đó ông bổ sung dần dần về số lượng mẩu chuyện, đến tháng 3/1977 đã hoàn thành cuốn sách với tựa đề “Truyện vui bác Ba Phi” do Hoạ sĩ Minh Trí vẽ bìa, nhà xuất bản thuộc Ty Thông tin tỉnh Minh Hải ấn hành. Sau đó các nhà xuất bản: Kim Ðồng, Sông Bé, Ðồng Nai, Ðà Nẵng, Thanh Hoá, Thanh Niên, Thời Ðại… phát hành “Truyện vui bác Ba Phi” của Anh Ðộng ở các dạng truyện tranh, rút ngắn thành tờ gấp, sách bỏ túi. Hàng trăm ngàn trang in và tranh vẽ được phát hành nên truyện bác Ba Phi ngày càng được nhiều người biết đến, nhiều ấn phẩm đã tái bản đến lần thứ 5, thứ 6. Như vậy, Nhà văn Anh Ðộng là người “phát pháo” đưa truyện truyền khẩu thành văn xuôi cách đây gần 40 năm.

Anh Ðộng và những người nghiên cứu, sáng tác truyện cười bác Ba Phi đều có chung nhận định: Tác phẩm của nhà văn, nhà thơ lớn là của riêng tác giả đó, còn truyện bác Ba Phi nếu ai nắm vững yếu tố cơ bản về cách tiếu lâm của ông thì bắt chước được ngay. Vì vậy, chúng ta có thể xem bác Ba Phi là người sáng lập ra 1 trường phái trào phúng đặc trưng Nam Bộ!

Trong kháng chiến, truyện cười bác Ba Phi không quanh quẩn ở cái nôi rừng tràm mà còn được kể khắp chiến trường Nam Bộ và theo dấu chân những người vượt Trường Sơn bay đến tận miền Bắc. Truyện bác Ba Phi truyền tới đâu là bám chặt tới đó, từ “gốc rễ” ban đầu, ngày qua ngày nó “đâm chồi nẩy lộc” đến vài trăm phiên bản dưới tên gọi “Con cháu bác Ba Phi kể chuyện”.

Năm 2014, Nhà văn Anh Ðộng vừa hoàn thành kịch bản văn học phim “Chuyện Ba Phi” được hãng phim truyền hình TFS đặt hàng. Ông cho biết phim bác Ba Phi được thực hiện theo kết cấu “chương, hồi” và tác giả Mỹ Hồng (vợ Nhà văn Anh Ðộng) đang viết cuốn tiểu thuyết về bác Ba Phi dựa theo cuốn sách “Truyện cười bác Ba Phi” của Anh Ðộng. Ðây là các tác phẩm tiếp theo những trang in được thoát thai từ các câu chuyện nhỏ của lớp hậu duệ bác Ba Phi đã dầy công sưu tầm, tập hợp, sáng tác để sau này giai thoại Ba Phi không bị mai một, lãng quên.

Truyện cười bác Ba Phi ngày xưa chỉ được truyền khẩu nên nó còn tuỳ thuộc vào khả năng diễn đạt, cách dùng ngôn ngữ và năng khiếu hài hước của từng người, vì vậy yếu tố hay, dở phụ thuộc vào người kể. Truyền khẩu cũng dễ “tam sao thất bản” nên rất cần việc sưu tầm, tập hợp và “văn bản hoá” có hệ thống và đầy đủ, bởi nó được hình thành từ người thật việc thật chứ không mang tính huyền thoại, truyền thuyết. Ðó là một phần lịch sử khẩn hoang của vùng đất U Minh xưa, vì vậy cần phải được giữ gìn, trân trọng./.

Bài và ảnh: Ngọc Diễm

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.