ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 7-7-25 08:15:07
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhà văn Anh Động: Người “chắp cánh”truyện cười bác Ba Phi

Báo Cà Mau Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày 3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày  3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi có biệt tài kể chuyện, không phải bác kể lại chuyện đời xưa, mà bác “tức cảnh thành lời”, nghĩa là khi có gợi ý, sự đề cập, khơi màu là bác có ngay câu chuyện về đề tài đó. Có người nhận xét: Bác Ba Phi nói dóc tài tình! Thật ra bác không nói dóc mà là phóng đại, nhân lên tới mức trào lộng từ những chuyện bình thường trở thành khác thường rồi “ngoa dụ” đến phi thường, nghe là cười vì sự cắc cớ, bất ngờ lại rất có duyên. Một điều khác biệt của truyện cười bác Ba Phi là không mang tính chỉ trích, mỉa mai, dè bĩu, lên án hay đả phá, mà tiếng cười trong truyện bác Ba Phi rất vô tư, hào sảng.

Nhà văn Anh Động bên góc sân vườn nhà.

Nhân vật trong truyện cười của bác là những động, thực vật trong rừng U Minh: cọp, hươu, nai, chồn, trăn, rùa, rắn, ếch, nhái, tràm, tre, dừa, mây, choại… cộng với bối cảnh và con người U Minh, bác Ba đã đưa những cái vô lý thành có lý để… cười. Những câu chuyện còn phản ảnh không gian sống của bác vừa trù phú về sản vật, vừa đầy ắp tình yêu thương giữa người và người, người với thiên nhiên, qua đó cho chúng ta hình dung sự thích nghi và cách đấu tranh sinh tồn của con người ở nơi hoang sơ để khai khẩn, định hình cộng đồng xã hội, đất rừng U Minh là nơi bác Ba đã gắn bó cả cuộc đời.

Những người tâm huyết 

Trong kháng chiến, nhiều cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân nông thôn có năng khiếu kể chuyện thế nào cũng “lận lưng” vài mẩu chuyện bác Ba Phi. Riêng các anh bộ đội đi qua những xóm làng, góp nhặt từ thực tiễn nên “dựng” thêm rồi gắn cho nó cái “mác” Ba Phi, thế là nó được lan toả, tạo tiếng cười sảng khoái, lạc quan khắp nơi.

Những “phiên bản” mới không ảnh hưởng gì đến cốt cách truyện cười bác Ba Phi mà còn làm phong phú cho kho tàng văn hoá dân gian quý báu ở vùng đất Cà Mau nói riêng và Nam Bộ nói chung. Nhà văn Anh Ðộng, tác giả Mỹ Hồng, Nhà báo Phan Anh Tuấn, Huỳnh Biên Cương, đồng chí cán bộ tuyên huấn Giang Văn Giang cùng rất nhiều “tác giả” không tên khác ở vùng giải phóng các tỉnh Tây Nam Bộ họ đã tập hợp từ nhiều nguồn, trong đó không loại trừ những truyện tiếu lâm được dân gian truyền khẩu rồi “Ba Phi hoá”. Vì vậy, họ có công đóng góp để làm giàu vốn quý ban đầu này. Riêng Nhà văn Anh Ðộng đã đầu tư khá công phu để viết thêm truyện mới, sưu tầm từ nhiều nguồn để in sách, viết kịch bản phim về đề tài bác Ba Phi.

Ông có thời gian sống và chiến đấu ở Cà Mau trên 15 năm nên truyện bác Ba Phi cũng đã ngấm vào máu thịt của ông. Những lần đi công tác đường xa, anh em thường kể cho nhau nghe truyện cười bác Ba Phi để quên đi mệt nhọc, thiếu thốn, hiểm nguy…, ông tích luỹ dần dần trong trí nhớ từng mẩu chuyện. Lúc này chưa ai ghi chép, chỉ truyền khẩu.

Truyền khẩu chính là "môi trường sống" của truyện cười bác Ba Phi, là món ăn tinh thần của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta ở các vùng giải phóng. Những năm công tác ở Tuyên huấn tỉnh, phụ trách việc chép tin đọc chậm trên Ðài Tiếng nói Việt Nam, viết bài cổ động để phát loa, hay ghi chép lại các trận đánh… đó là giai đoạn chập chững vào nghề viết lách của ông. Thời gian học ở trường viết văn Khu Tây Nam Bộ, ông có điều kiện đọc sách nhiều, nghiên cứu thêm văn hoá dân gian các vùng, miền, ngụ ngôn của các nước, ông suy nghĩ: nếu ngày xưa không ai ghi lại thì làm sao mình có sách mà đọc như hôm nay, nghĩ thế, ông nuôi ý tưởng viết truyện bác Ba Phi.

Trước khi bắt tay vào công việc viết mới, ông nghiên cứu kỹ, sâu sắc, khám phá nét đặc thù trong thế giới nhân vật của bác Ba Phi, ông thấy nó chuyển động và sinh tồn tự nhiên. Bác Ba không “nhân cách hoá” chúng như truyện ngụ ngôn mà bác khoác cho chúng dạng mới, tính cách mới, hành động mới, bắt nó chuyên chở cái ngộ nghĩnh, lém lĩnh, trừu tượng của ông. Anh Ðộng đã nhìn thấu cốt cách này và ghi nhận một cách tinh tế. Ông tập hợp những câu chuyện “gốc” rồi tiếp tục sáng tác những câu chuyện mới nhưng không tách rời cốt cách Ba Phi, nên anh giữ được cái đời thường trong truyện bác Ba Phi, không sắc sảo trong tranh luận, không đáo để trong ứng xử, đối phó mà nó va chạm nhau tếu táo, ngớ ngẩn, ngây ngô gây cho thiên hạ tiếng cười thoải mái, cười nôn ruột… rồi thôi, không đọng lại nỗi niềm chua chát, thất vọng hay hằn hộc. Nụ cười đó mới thật sự ngang bằng với “mười thang thuốc bổ”.

Người “chắp cánh” cho truyện cười bác Ba Phi

Quá trình tập hợp, sáng tác cũng ngót chục năm, lần đầu tiên truyện bác Ba Phi của Anh Ðộng được lên mặt báo dịp Xuân năm 1976 trên tờ Văn nghệ Sài Gòn, đó là câu chuyện “Con heo đi cày”. Sau đó ông bổ sung dần dần về số lượng mẩu chuyện, đến tháng 3/1977 đã hoàn thành cuốn sách với tựa đề “Truyện vui bác Ba Phi” do Hoạ sĩ Minh Trí vẽ bìa, nhà xuất bản thuộc Ty Thông tin tỉnh Minh Hải ấn hành. Sau đó các nhà xuất bản: Kim Ðồng, Sông Bé, Ðồng Nai, Ðà Nẵng, Thanh Hoá, Thanh Niên, Thời Ðại… phát hành “Truyện vui bác Ba Phi” của Anh Ðộng ở các dạng truyện tranh, rút ngắn thành tờ gấp, sách bỏ túi. Hàng trăm ngàn trang in và tranh vẽ được phát hành nên truyện bác Ba Phi ngày càng được nhiều người biết đến, nhiều ấn phẩm đã tái bản đến lần thứ 5, thứ 6. Như vậy, Nhà văn Anh Ðộng là người “phát pháo” đưa truyện truyền khẩu thành văn xuôi cách đây gần 40 năm.

Anh Ðộng và những người nghiên cứu, sáng tác truyện cười bác Ba Phi đều có chung nhận định: Tác phẩm của nhà văn, nhà thơ lớn là của riêng tác giả đó, còn truyện bác Ba Phi nếu ai nắm vững yếu tố cơ bản về cách tiếu lâm của ông thì bắt chước được ngay. Vì vậy, chúng ta có thể xem bác Ba Phi là người sáng lập ra 1 trường phái trào phúng đặc trưng Nam Bộ!

Trong kháng chiến, truyện cười bác Ba Phi không quanh quẩn ở cái nôi rừng tràm mà còn được kể khắp chiến trường Nam Bộ và theo dấu chân những người vượt Trường Sơn bay đến tận miền Bắc. Truyện bác Ba Phi truyền tới đâu là bám chặt tới đó, từ “gốc rễ” ban đầu, ngày qua ngày nó “đâm chồi nẩy lộc” đến vài trăm phiên bản dưới tên gọi “Con cháu bác Ba Phi kể chuyện”.

Năm 2014, Nhà văn Anh Ðộng vừa hoàn thành kịch bản văn học phim “Chuyện Ba Phi” được hãng phim truyền hình TFS đặt hàng. Ông cho biết phim bác Ba Phi được thực hiện theo kết cấu “chương, hồi” và tác giả Mỹ Hồng (vợ Nhà văn Anh Ðộng) đang viết cuốn tiểu thuyết về bác Ba Phi dựa theo cuốn sách “Truyện cười bác Ba Phi” của Anh Ðộng. Ðây là các tác phẩm tiếp theo những trang in được thoát thai từ các câu chuyện nhỏ của lớp hậu duệ bác Ba Phi đã dầy công sưu tầm, tập hợp, sáng tác để sau này giai thoại Ba Phi không bị mai một, lãng quên.

Truyện cười bác Ba Phi ngày xưa chỉ được truyền khẩu nên nó còn tuỳ thuộc vào khả năng diễn đạt, cách dùng ngôn ngữ và năng khiếu hài hước của từng người, vì vậy yếu tố hay, dở phụ thuộc vào người kể. Truyền khẩu cũng dễ “tam sao thất bản” nên rất cần việc sưu tầm, tập hợp và “văn bản hoá” có hệ thống và đầy đủ, bởi nó được hình thành từ người thật việc thật chứ không mang tính huyền thoại, truyền thuyết. Ðó là một phần lịch sử khẩn hoang của vùng đất U Minh xưa, vì vậy cần phải được giữ gìn, trân trọng./.

Bài và ảnh: Ngọc Diễm

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.