ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 26-8-25 00:01:58
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhà văn Anh Động: Người “chắp cánh”truyện cười bác Ba Phi

Báo Cà Mau Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày 3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày  3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi có biệt tài kể chuyện, không phải bác kể lại chuyện đời xưa, mà bác “tức cảnh thành lời”, nghĩa là khi có gợi ý, sự đề cập, khơi màu là bác có ngay câu chuyện về đề tài đó. Có người nhận xét: Bác Ba Phi nói dóc tài tình! Thật ra bác không nói dóc mà là phóng đại, nhân lên tới mức trào lộng từ những chuyện bình thường trở thành khác thường rồi “ngoa dụ” đến phi thường, nghe là cười vì sự cắc cớ, bất ngờ lại rất có duyên. Một điều khác biệt của truyện cười bác Ba Phi là không mang tính chỉ trích, mỉa mai, dè bĩu, lên án hay đả phá, mà tiếng cười trong truyện bác Ba Phi rất vô tư, hào sảng.

Nhà văn Anh Động bên góc sân vườn nhà.

Nhân vật trong truyện cười của bác là những động, thực vật trong rừng U Minh: cọp, hươu, nai, chồn, trăn, rùa, rắn, ếch, nhái, tràm, tre, dừa, mây, choại… cộng với bối cảnh và con người U Minh, bác Ba đã đưa những cái vô lý thành có lý để… cười. Những câu chuyện còn phản ảnh không gian sống của bác vừa trù phú về sản vật, vừa đầy ắp tình yêu thương giữa người và người, người với thiên nhiên, qua đó cho chúng ta hình dung sự thích nghi và cách đấu tranh sinh tồn của con người ở nơi hoang sơ để khai khẩn, định hình cộng đồng xã hội, đất rừng U Minh là nơi bác Ba đã gắn bó cả cuộc đời.

Những người tâm huyết 

Trong kháng chiến, nhiều cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân nông thôn có năng khiếu kể chuyện thế nào cũng “lận lưng” vài mẩu chuyện bác Ba Phi. Riêng các anh bộ đội đi qua những xóm làng, góp nhặt từ thực tiễn nên “dựng” thêm rồi gắn cho nó cái “mác” Ba Phi, thế là nó được lan toả, tạo tiếng cười sảng khoái, lạc quan khắp nơi.

Những “phiên bản” mới không ảnh hưởng gì đến cốt cách truyện cười bác Ba Phi mà còn làm phong phú cho kho tàng văn hoá dân gian quý báu ở vùng đất Cà Mau nói riêng và Nam Bộ nói chung. Nhà văn Anh Ðộng, tác giả Mỹ Hồng, Nhà báo Phan Anh Tuấn, Huỳnh Biên Cương, đồng chí cán bộ tuyên huấn Giang Văn Giang cùng rất nhiều “tác giả” không tên khác ở vùng giải phóng các tỉnh Tây Nam Bộ họ đã tập hợp từ nhiều nguồn, trong đó không loại trừ những truyện tiếu lâm được dân gian truyền khẩu rồi “Ba Phi hoá”. Vì vậy, họ có công đóng góp để làm giàu vốn quý ban đầu này. Riêng Nhà văn Anh Ðộng đã đầu tư khá công phu để viết thêm truyện mới, sưu tầm từ nhiều nguồn để in sách, viết kịch bản phim về đề tài bác Ba Phi.

Ông có thời gian sống và chiến đấu ở Cà Mau trên 15 năm nên truyện bác Ba Phi cũng đã ngấm vào máu thịt của ông. Những lần đi công tác đường xa, anh em thường kể cho nhau nghe truyện cười bác Ba Phi để quên đi mệt nhọc, thiếu thốn, hiểm nguy…, ông tích luỹ dần dần trong trí nhớ từng mẩu chuyện. Lúc này chưa ai ghi chép, chỉ truyền khẩu.

Truyền khẩu chính là "môi trường sống" của truyện cười bác Ba Phi, là món ăn tinh thần của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta ở các vùng giải phóng. Những năm công tác ở Tuyên huấn tỉnh, phụ trách việc chép tin đọc chậm trên Ðài Tiếng nói Việt Nam, viết bài cổ động để phát loa, hay ghi chép lại các trận đánh… đó là giai đoạn chập chững vào nghề viết lách của ông. Thời gian học ở trường viết văn Khu Tây Nam Bộ, ông có điều kiện đọc sách nhiều, nghiên cứu thêm văn hoá dân gian các vùng, miền, ngụ ngôn của các nước, ông suy nghĩ: nếu ngày xưa không ai ghi lại thì làm sao mình có sách mà đọc như hôm nay, nghĩ thế, ông nuôi ý tưởng viết truyện bác Ba Phi.

Trước khi bắt tay vào công việc viết mới, ông nghiên cứu kỹ, sâu sắc, khám phá nét đặc thù trong thế giới nhân vật của bác Ba Phi, ông thấy nó chuyển động và sinh tồn tự nhiên. Bác Ba không “nhân cách hoá” chúng như truyện ngụ ngôn mà bác khoác cho chúng dạng mới, tính cách mới, hành động mới, bắt nó chuyên chở cái ngộ nghĩnh, lém lĩnh, trừu tượng của ông. Anh Ðộng đã nhìn thấu cốt cách này và ghi nhận một cách tinh tế. Ông tập hợp những câu chuyện “gốc” rồi tiếp tục sáng tác những câu chuyện mới nhưng không tách rời cốt cách Ba Phi, nên anh giữ được cái đời thường trong truyện bác Ba Phi, không sắc sảo trong tranh luận, không đáo để trong ứng xử, đối phó mà nó va chạm nhau tếu táo, ngớ ngẩn, ngây ngô gây cho thiên hạ tiếng cười thoải mái, cười nôn ruột… rồi thôi, không đọng lại nỗi niềm chua chát, thất vọng hay hằn hộc. Nụ cười đó mới thật sự ngang bằng với “mười thang thuốc bổ”.

Người “chắp cánh” cho truyện cười bác Ba Phi

Quá trình tập hợp, sáng tác cũng ngót chục năm, lần đầu tiên truyện bác Ba Phi của Anh Ðộng được lên mặt báo dịp Xuân năm 1976 trên tờ Văn nghệ Sài Gòn, đó là câu chuyện “Con heo đi cày”. Sau đó ông bổ sung dần dần về số lượng mẩu chuyện, đến tháng 3/1977 đã hoàn thành cuốn sách với tựa đề “Truyện vui bác Ba Phi” do Hoạ sĩ Minh Trí vẽ bìa, nhà xuất bản thuộc Ty Thông tin tỉnh Minh Hải ấn hành. Sau đó các nhà xuất bản: Kim Ðồng, Sông Bé, Ðồng Nai, Ðà Nẵng, Thanh Hoá, Thanh Niên, Thời Ðại… phát hành “Truyện vui bác Ba Phi” của Anh Ðộng ở các dạng truyện tranh, rút ngắn thành tờ gấp, sách bỏ túi. Hàng trăm ngàn trang in và tranh vẽ được phát hành nên truyện bác Ba Phi ngày càng được nhiều người biết đến, nhiều ấn phẩm đã tái bản đến lần thứ 5, thứ 6. Như vậy, Nhà văn Anh Ðộng là người “phát pháo” đưa truyện truyền khẩu thành văn xuôi cách đây gần 40 năm.

Anh Ðộng và những người nghiên cứu, sáng tác truyện cười bác Ba Phi đều có chung nhận định: Tác phẩm của nhà văn, nhà thơ lớn là của riêng tác giả đó, còn truyện bác Ba Phi nếu ai nắm vững yếu tố cơ bản về cách tiếu lâm của ông thì bắt chước được ngay. Vì vậy, chúng ta có thể xem bác Ba Phi là người sáng lập ra 1 trường phái trào phúng đặc trưng Nam Bộ!

Trong kháng chiến, truyện cười bác Ba Phi không quanh quẩn ở cái nôi rừng tràm mà còn được kể khắp chiến trường Nam Bộ và theo dấu chân những người vượt Trường Sơn bay đến tận miền Bắc. Truyện bác Ba Phi truyền tới đâu là bám chặt tới đó, từ “gốc rễ” ban đầu, ngày qua ngày nó “đâm chồi nẩy lộc” đến vài trăm phiên bản dưới tên gọi “Con cháu bác Ba Phi kể chuyện”.

Năm 2014, Nhà văn Anh Ðộng vừa hoàn thành kịch bản văn học phim “Chuyện Ba Phi” được hãng phim truyền hình TFS đặt hàng. Ông cho biết phim bác Ba Phi được thực hiện theo kết cấu “chương, hồi” và tác giả Mỹ Hồng (vợ Nhà văn Anh Ðộng) đang viết cuốn tiểu thuyết về bác Ba Phi dựa theo cuốn sách “Truyện cười bác Ba Phi” của Anh Ðộng. Ðây là các tác phẩm tiếp theo những trang in được thoát thai từ các câu chuyện nhỏ của lớp hậu duệ bác Ba Phi đã dầy công sưu tầm, tập hợp, sáng tác để sau này giai thoại Ba Phi không bị mai một, lãng quên.

Truyện cười bác Ba Phi ngày xưa chỉ được truyền khẩu nên nó còn tuỳ thuộc vào khả năng diễn đạt, cách dùng ngôn ngữ và năng khiếu hài hước của từng người, vì vậy yếu tố hay, dở phụ thuộc vào người kể. Truyền khẩu cũng dễ “tam sao thất bản” nên rất cần việc sưu tầm, tập hợp và “văn bản hoá” có hệ thống và đầy đủ, bởi nó được hình thành từ người thật việc thật chứ không mang tính huyền thoại, truyền thuyết. Ðó là một phần lịch sử khẩn hoang của vùng đất U Minh xưa, vì vậy cần phải được giữ gìn, trân trọng./.

Bài và ảnh: Ngọc Diễm

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.