ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 21:40:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhà văn Anh Động: Người “chắp cánh”truyện cười bác Ba Phi

Báo Cà Mau Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày 3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi tên thật là Trần Long Phi, sinh năm 1884, tại Đồng Tháp, thời loạn lạc ông chạy về phía rừng U Minh để mưu sinh và mất vào ngày  3/11/1964 trên quê hương thứ 2 này tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Nơi đây hiện đã trở thành Khu Di tích Nghệ nhân dân gian Trần Long Phi, tức bác Ba Phi. Tên tuổi của ông gắn liền với biết bao giai thoại và trở thành biểu tượng lạc quan, niềm tự hào của vùng đất U Minh.

Bác Ba Phi có biệt tài kể chuyện, không phải bác kể lại chuyện đời xưa, mà bác “tức cảnh thành lời”, nghĩa là khi có gợi ý, sự đề cập, khơi màu là bác có ngay câu chuyện về đề tài đó. Có người nhận xét: Bác Ba Phi nói dóc tài tình! Thật ra bác không nói dóc mà là phóng đại, nhân lên tới mức trào lộng từ những chuyện bình thường trở thành khác thường rồi “ngoa dụ” đến phi thường, nghe là cười vì sự cắc cớ, bất ngờ lại rất có duyên. Một điều khác biệt của truyện cười bác Ba Phi là không mang tính chỉ trích, mỉa mai, dè bĩu, lên án hay đả phá, mà tiếng cười trong truyện bác Ba Phi rất vô tư, hào sảng.

Nhà văn Anh Động bên góc sân vườn nhà.

Nhân vật trong truyện cười của bác là những động, thực vật trong rừng U Minh: cọp, hươu, nai, chồn, trăn, rùa, rắn, ếch, nhái, tràm, tre, dừa, mây, choại… cộng với bối cảnh và con người U Minh, bác Ba đã đưa những cái vô lý thành có lý để… cười. Những câu chuyện còn phản ảnh không gian sống của bác vừa trù phú về sản vật, vừa đầy ắp tình yêu thương giữa người và người, người với thiên nhiên, qua đó cho chúng ta hình dung sự thích nghi và cách đấu tranh sinh tồn của con người ở nơi hoang sơ để khai khẩn, định hình cộng đồng xã hội, đất rừng U Minh là nơi bác Ba đã gắn bó cả cuộc đời.

Những người tâm huyết 

Trong kháng chiến, nhiều cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân nông thôn có năng khiếu kể chuyện thế nào cũng “lận lưng” vài mẩu chuyện bác Ba Phi. Riêng các anh bộ đội đi qua những xóm làng, góp nhặt từ thực tiễn nên “dựng” thêm rồi gắn cho nó cái “mác” Ba Phi, thế là nó được lan toả, tạo tiếng cười sảng khoái, lạc quan khắp nơi.

Những “phiên bản” mới không ảnh hưởng gì đến cốt cách truyện cười bác Ba Phi mà còn làm phong phú cho kho tàng văn hoá dân gian quý báu ở vùng đất Cà Mau nói riêng và Nam Bộ nói chung. Nhà văn Anh Ðộng, tác giả Mỹ Hồng, Nhà báo Phan Anh Tuấn, Huỳnh Biên Cương, đồng chí cán bộ tuyên huấn Giang Văn Giang cùng rất nhiều “tác giả” không tên khác ở vùng giải phóng các tỉnh Tây Nam Bộ họ đã tập hợp từ nhiều nguồn, trong đó không loại trừ những truyện tiếu lâm được dân gian truyền khẩu rồi “Ba Phi hoá”. Vì vậy, họ có công đóng góp để làm giàu vốn quý ban đầu này. Riêng Nhà văn Anh Ðộng đã đầu tư khá công phu để viết thêm truyện mới, sưu tầm từ nhiều nguồn để in sách, viết kịch bản phim về đề tài bác Ba Phi.

Ông có thời gian sống và chiến đấu ở Cà Mau trên 15 năm nên truyện bác Ba Phi cũng đã ngấm vào máu thịt của ông. Những lần đi công tác đường xa, anh em thường kể cho nhau nghe truyện cười bác Ba Phi để quên đi mệt nhọc, thiếu thốn, hiểm nguy…, ông tích luỹ dần dần trong trí nhớ từng mẩu chuyện. Lúc này chưa ai ghi chép, chỉ truyền khẩu.

Truyền khẩu chính là "môi trường sống" của truyện cười bác Ba Phi, là món ăn tinh thần của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta ở các vùng giải phóng. Những năm công tác ở Tuyên huấn tỉnh, phụ trách việc chép tin đọc chậm trên Ðài Tiếng nói Việt Nam, viết bài cổ động để phát loa, hay ghi chép lại các trận đánh… đó là giai đoạn chập chững vào nghề viết lách của ông. Thời gian học ở trường viết văn Khu Tây Nam Bộ, ông có điều kiện đọc sách nhiều, nghiên cứu thêm văn hoá dân gian các vùng, miền, ngụ ngôn của các nước, ông suy nghĩ: nếu ngày xưa không ai ghi lại thì làm sao mình có sách mà đọc như hôm nay, nghĩ thế, ông nuôi ý tưởng viết truyện bác Ba Phi.

Trước khi bắt tay vào công việc viết mới, ông nghiên cứu kỹ, sâu sắc, khám phá nét đặc thù trong thế giới nhân vật của bác Ba Phi, ông thấy nó chuyển động và sinh tồn tự nhiên. Bác Ba không “nhân cách hoá” chúng như truyện ngụ ngôn mà bác khoác cho chúng dạng mới, tính cách mới, hành động mới, bắt nó chuyên chở cái ngộ nghĩnh, lém lĩnh, trừu tượng của ông. Anh Ðộng đã nhìn thấu cốt cách này và ghi nhận một cách tinh tế. Ông tập hợp những câu chuyện “gốc” rồi tiếp tục sáng tác những câu chuyện mới nhưng không tách rời cốt cách Ba Phi, nên anh giữ được cái đời thường trong truyện bác Ba Phi, không sắc sảo trong tranh luận, không đáo để trong ứng xử, đối phó mà nó va chạm nhau tếu táo, ngớ ngẩn, ngây ngô gây cho thiên hạ tiếng cười thoải mái, cười nôn ruột… rồi thôi, không đọng lại nỗi niềm chua chát, thất vọng hay hằn hộc. Nụ cười đó mới thật sự ngang bằng với “mười thang thuốc bổ”.

Người “chắp cánh” cho truyện cười bác Ba Phi

Quá trình tập hợp, sáng tác cũng ngót chục năm, lần đầu tiên truyện bác Ba Phi của Anh Ðộng được lên mặt báo dịp Xuân năm 1976 trên tờ Văn nghệ Sài Gòn, đó là câu chuyện “Con heo đi cày”. Sau đó ông bổ sung dần dần về số lượng mẩu chuyện, đến tháng 3/1977 đã hoàn thành cuốn sách với tựa đề “Truyện vui bác Ba Phi” do Hoạ sĩ Minh Trí vẽ bìa, nhà xuất bản thuộc Ty Thông tin tỉnh Minh Hải ấn hành. Sau đó các nhà xuất bản: Kim Ðồng, Sông Bé, Ðồng Nai, Ðà Nẵng, Thanh Hoá, Thanh Niên, Thời Ðại… phát hành “Truyện vui bác Ba Phi” của Anh Ðộng ở các dạng truyện tranh, rút ngắn thành tờ gấp, sách bỏ túi. Hàng trăm ngàn trang in và tranh vẽ được phát hành nên truyện bác Ba Phi ngày càng được nhiều người biết đến, nhiều ấn phẩm đã tái bản đến lần thứ 5, thứ 6. Như vậy, Nhà văn Anh Ðộng là người “phát pháo” đưa truyện truyền khẩu thành văn xuôi cách đây gần 40 năm.

Anh Ðộng và những người nghiên cứu, sáng tác truyện cười bác Ba Phi đều có chung nhận định: Tác phẩm của nhà văn, nhà thơ lớn là của riêng tác giả đó, còn truyện bác Ba Phi nếu ai nắm vững yếu tố cơ bản về cách tiếu lâm của ông thì bắt chước được ngay. Vì vậy, chúng ta có thể xem bác Ba Phi là người sáng lập ra 1 trường phái trào phúng đặc trưng Nam Bộ!

Trong kháng chiến, truyện cười bác Ba Phi không quanh quẩn ở cái nôi rừng tràm mà còn được kể khắp chiến trường Nam Bộ và theo dấu chân những người vượt Trường Sơn bay đến tận miền Bắc. Truyện bác Ba Phi truyền tới đâu là bám chặt tới đó, từ “gốc rễ” ban đầu, ngày qua ngày nó “đâm chồi nẩy lộc” đến vài trăm phiên bản dưới tên gọi “Con cháu bác Ba Phi kể chuyện”.

Năm 2014, Nhà văn Anh Ðộng vừa hoàn thành kịch bản văn học phim “Chuyện Ba Phi” được hãng phim truyền hình TFS đặt hàng. Ông cho biết phim bác Ba Phi được thực hiện theo kết cấu “chương, hồi” và tác giả Mỹ Hồng (vợ Nhà văn Anh Ðộng) đang viết cuốn tiểu thuyết về bác Ba Phi dựa theo cuốn sách “Truyện cười bác Ba Phi” của Anh Ðộng. Ðây là các tác phẩm tiếp theo những trang in được thoát thai từ các câu chuyện nhỏ của lớp hậu duệ bác Ba Phi đã dầy công sưu tầm, tập hợp, sáng tác để sau này giai thoại Ba Phi không bị mai một, lãng quên.

Truyện cười bác Ba Phi ngày xưa chỉ được truyền khẩu nên nó còn tuỳ thuộc vào khả năng diễn đạt, cách dùng ngôn ngữ và năng khiếu hài hước của từng người, vì vậy yếu tố hay, dở phụ thuộc vào người kể. Truyền khẩu cũng dễ “tam sao thất bản” nên rất cần việc sưu tầm, tập hợp và “văn bản hoá” có hệ thống và đầy đủ, bởi nó được hình thành từ người thật việc thật chứ không mang tính huyền thoại, truyền thuyết. Ðó là một phần lịch sử khẩn hoang của vùng đất U Minh xưa, vì vậy cần phải được giữ gìn, trân trọng./.

Bài và ảnh: Ngọc Diễm

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.