ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 9-7-24 01:32:57
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Những kỷ niệm nhớ Bác Hồ

Báo Cà Mau Năm 1955, kỷ niệm 10 năm Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tôi là học sinh miền Nam - một đội viên thiếu niên vừa tròn 14 tuổi. Tôi may mắn được chọn vào đội học sinh miền Nam diễu hành qua lễ đài Ba Ðình - Hà Nội trong ngày lễ trọng đại đó. Niềm vui lớn nhất của chúng tôi là biết chắc thế nào cũng được gặp Bác Hồ.

Hơn 1 tháng luyện tập đội hình, chúng tôi vô cùng tận tâm và háo hức. Luyện tập đội hình đội ngũ đi trong ngày lễ lớn của quốc gia không phải là chuyện giản đơn. Nhưng chúng tôi không ai thoái chí, nản lòng mà rất kiên trì tập luyện. Chúng tôi không một ai muốn bị rớt lại, vì tất cả đều khao khát trông đợi ngày được gặp Bác Hồ.

Chúng tôi được phát đồng phục mới tinh và chiếc khăn quàng đội viên đỏ rực, được đưa về Thủ đô trước ngày lễ độ 1 tuần, để ráp đội hình chung và làm quen sân lễ. Ðối với trẻ con chúng tôi lúc đó, thời gian trôi như tia chớp và niềm vui cứ đến ào ào như những cơn dông. Ở Thủ đô 1 tuần, vừa luyện tập vừa được xe chở đi xem cảnh phố phường, ngày lễ đến lúc nào không hay.

Tranh: Minh Tấn

Tôi còn nhớ, hôm đó mới 3 giờ sáng, chúng tôi đã được cô giáo đánh thức. Ðúng 5 giờ sáng, đội hình học sinh, sinh viên của chúng tôi cùng tất cả các đội hình khác đã ngay ngắn, chỉnh tề trên quảng trường. Không biết người lớn ra sao, chứ trẻ con chúng tôi vô cùng hồi hộp. Tôi có cảm giác như trái tim mình khó có thể ở yên trong lồng ngực lâu hơn. Nhất là khi trên lễ đài lần lượt xuất hiện đoàn đại biểu Ðảng, Nhà nước, xuất hiện Bác Hồ. Hình như tất cả chúng tôi và mọi người chỉ kịp kêu lên: “Bác Hồ! Bác Hồ!”, rồi cứ thế để cho hình ảnh Bác nhoà đi qua màn lệ khao khát đợi chờ, sướng vui, xúc động.

Tôi không biết là bao nhiêu lâu sau, nhưng nhớ rất rõ phải lâu lắm trên lễ đài mới thôi giơ tay vẫy chào và phía dưới, sóng biển người mới thôi xào xạc. Buổi lễ bắt đầu và lúc đó Bác đọc diễn văn, giọng Bác thật ấm áp. Các đội viên vinh dự lại tiếp tục tặng hoa và quàng khăn đội viên cho Bác. Sau đó là lễ duyệt binh và tuần hành biểu dương lực lượng. Cứ mỗi lớp người qua lễ đài, bước chân dù có rầm rập đến đâu, đội ngũ dù có trùng điệp nhường nào, tất cả hướng về lễ đài mong được nhìn Bác thật lâu.

Ðó là lần đầu tiên trên miền Bắc tôi được nhìn thấy Bác Hồ. Sau này tôi còn được gặp Bác nhiều lần nữa, trong nhiều dịp khác nhau.

Tôi nhớ hoài chuyến đến trường bất ngờ của Bác vào giờ ăn trưa của chúng tôi. Hôm đó, bỗng nhiên chú Hiệu trưởng (hồi đó chúng tôi gọi chú chứ không gọi thầy) dẫn một ông già râu dài, với bộ áo cánh nâu kiểu nông dân miền Bắc hay mặc, đầu đội nón lá phụ nữ bước vào. Chúng tôi chưa hết ngơ ngác thì Bác bỏ nón, bỏ bộ râu cải trang. Bác cười rất tươi, rất phúc hậu. Bác nói:

"Các cháu cứ ăn cơm đi, Bác vào đây một chút thôi, để coi các chú, các cô nuôi các cháu ra sao"...

 Bác đi giữa các dãy bàn suốt phòng ăn, dừng lại một số mâm hỏi han và vuốt tóc từng đứa một. Bác xuất hiện một chút vậy thôi mà gần như thu hút, đảo lộn hết thảy chúng tôi. Những năm ấy chúng tôi vẫn thường được Bác về thăm như thế. Quà của Bác mỗi lần về chẳng có gì ngoài những viên kẹo nhỏ Bác mang chia đều, nhất là vào những dịp hè, dịp Tết. Quà ít ỏi vậy mà chúng tôi đã nâng niu, ấp ủ, bao bọc rất kỹ lưỡng, chờ mang về Nam khoe với cha mẹ, anh chị, bạn bè, bà con cô bác, khoe với tất cả những ai từng khao khát mà chưa làm sao được gặp Bác Hồ.

Những năm 1955-1959, thượng khách nước ngoài đến thăm miền Bắc phải đi bằng đường thuỷ và cập bến Hải Phòng. Mỗi lần có khách quý, chúng tôi đều được đứng ở vị trí hai bên đường làm hàng rào danh dự để đón tiếp. Riết rồi chúng tôi quen đón tầm cỡ khách, để biết Bác có xuất hiện hay không. Thường trong những lúc Bác đi đón khách, Bác đứng trên chiếc xe mui trần, giơ tay vẫy chào hết thảy học sinh, cán bộ, đồng bào đứng dọc hai bên đường. Những năm 1960-1963, khi Sân bay Gia Lâm hoạt động trở lại, Bác thường đón khách ở đó.

Tôi nhớ mãi lần Bác Hồ đưa Tổng thống Xu-các-nô và phu nhân đến thăm Trường Ðại học Sư phạm Hà Nội của chúng tôi. Ðó là năm 1963, lần đó tôi cũng được chọn vào hàng ngũ danh dự để đón tiếp phái đoàn mà chúng tôi biết chắc được Bác Hồ đưa đến. Có đến 100 nữ sinh viên được chọn đứng hàng rào danh dự, chúng tôi đều phải mặc áo dài. Tôi được chọn đứng vào vị trí gần Bác Hồ nhất vì ở ngay bậc tam cấp cửa dẫn vào hội trường, nơi sinh viên đã tập trung đón khách.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần về thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh tư liệu. Nguồn Internet

Xe đỗ cách bậc thềm chừng 10 thước, bảo vệ theo Bác mở cửa, Bác bước ra. Bên xe bạn, Tổng thống và phu nhân cùng vài vị khách trong đoàn lần lượt xuống xe. Bác bước lại đón khách và đưa tay, ý chỉ lối cho khách vào hội trường. Tôi nhớ rất rõ, Tổng thống, phu nhân của Tổng thống và Bác đã đi ngang hàng đến bậc thềm. Ðến đó, Bác nhường khách lên trước, bản thân mình từ tốn bước theo sau.

Năm 1964, giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Sau lần gặp ấy, trường tôi phải đi sơ tán tận Thái Nguyên, nơi Bác và Trung ương ngày xưa đã ở. Lần gặp đó, là lần gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi cho đến ngày Bác qua đời.

Khi tôi là giáo viên dạy Văn Trường cấp 3 Ðan Phượng, Hà Nội, 1 tháng trước ngày Bác mất, chúng tôi được thông báo về tình trạng sức khoẻ của Bác gần như hằng ngày. Vậy mà sáng ngày 4/9, Ðài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam báo tin: “Hôm qua, vào lúc 9 giờ 47 phút, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh biệt chúng ta sau một cơn đau tim nặng...”.

Chúng tôi đã lắng nghe trong tiếng nấc của mỗi người, của chính mình. Khóc mà không sao khỏi bật lên thành tiếng. Tiết đầu hôm đó, tôi vẫn đến lớp với học sinh. Tôi còn nhớ, chỉ ghi vỏn vẹn những chữ sau đây thiệt lớn trên bảng đen trước mặt các em:

“9 giờ 47 phút ngày 3/9/1969, Bác Hồ kính yêu vĩnh biệt chúng ta"

Tôi viết và biết rõ dòng chữ ấy không chỉ dặn các em mà còn để ghi xương khắc cốt trong mình. Hôm đó tôi và các học sinh cùng chung một bài học: Bài học về sự hy sinh lo cho nước, cho dân suốt cuộc đời của Bác.

Lễ tưởng niệm và việc viếng Bác tại Thủ đô kéo dài suốt 1 tuần. Cho đến bây giờ, tôi không còn nhớ trong tuần lễ đó chúng tôi đã dạy và học ra sao?. Tôi chỉ còn nhớ những câu chuyện đầy xúc động đã diễn ra ngay sau những ngày Bác qua đời. Như chuyện có rất nhiều ông già, bà lão từ các tỉnh xa xôi chưa một lần về Hà Nội, lần này đã đi bộ về Thủ đô viếng Bác. Có ông già mù loà từ Thái Nguyên đã theo con cháu xuống núi về Thủ đô để được gần gũi bên Bác. Một điều nữa tôi cũng nhớ rất rõ là, suốt 1 tuần diễn ra lễ tang Bác, trời miền Bắc luôn đổ mưa tầm tã. Và nước mắt của đồng bào mọi miền về tiễn Bác cũng tầm tã trên Quảng trường Ba Ðình.

Bác đã ra đi sau kỷ niệm Quốc khánh 2/9/1969 có 1 ngày (sau này mới biết là Bác mất ngày 2/9, nhưng không muốn Quốc tang trùng Quốc khánh nên Ðảng ta thông báo Bác mất vào ngày 3/9).

Lịch sử có những điệp khúc thật hào hùng. Lúc sinh thời Bác nào ngờ kỷ niệm 30 năm thành lập nước 2/ 9/1975, được diễn ra ngay năm đất nước vừa được giải phóng, đồng bào Bắc - Nam sum họp một nhà, đã thoả lòng mong đợi của Bác.

Ngày 2/9/1975, tôi vừa đặt chân xuống thị xã Cà Mau, lòng tôi day dứt một nỗi đau, một niềm thương tiếc Bác.

Khi trở về miền Nam, Lăng Bác làm chưa xong. Mãi đến năm 1980, tôi được cùng một đoàn cán bộ quản lý giáo dục ra học tập các trường tiên tiến phía Bắc. Khi đó, tôi mới có dịp vào viếng Lăng Bác. Tôi đã khóc suốt giờ chiếu phim dựng lại cuộc đời hoạt động của Bác. Mọi người cũng như tôi, khóc trong hàng chờ vào Lăng mà văng vẳng bên tai là những bài hát ca ngợi Bác Hồ. Không khí trong Lăng mát lạnh. Bác nằm đó, hồng hào và thanh thản như chỉ vừa đi vào một giấc ngủ sâu. Bác nằm đó, giữa các anh lính trẻ đứng canh giữ giấc ngủ hiền của Bác.

Ðâu phải chỉ có những thầy cô giáo chúng tôi mới hiểu nhiều về Bác mà cả dân tộc ta đều hiểu Bác thật nhiều. Bác là con người hơn hết thảy mỗi người chúng ta. Bác thật gần gũi nhưng cũng hết sức thiêng liêng và bất diệt. Ra đi, Bác đã để lại cho chúng ta tất cả.

Tình yêu đối với Bác Hồ sâu nặng bao la nói sao cho hết. Tôi chỉ muốn thổ lộ một điều bình dị nhất: Ước gì! Ước gì Bác vẫn còn sống được với chúng ta cho đến bây giờ!

 

Ðàm Thị Ngọc Thơ

 

Trường nội trú Cà Mau - Ninh Bình: Những ký ức không phai

Cuối tháng 3/1972, ở đây chưa có mưa, còn là mùa hạn. Thầy Lê Châu, Hiệu trưởng và thầy Năm Thuật, Hiệu phó Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình, khoá 3, đến Xóm Dừa, Ấp 6A. Cô Mười Mỳ là Bí thư Chi bộ xã Quách Văn Phẩm “B”, huyện Tư Kháng (huyện Ðầm Dơi ngày nay). Các thầy tìm chỗ để cất trường học và chọn vườn cô Út Ngươn để đặt lớp học. Xa ngoài kia, chọn vườn Biện Ðài, Lung Chim và 1 điểm nữa ở Thanh Tùng.

Chuyện chữ “T” của Nhà báo Trần Ngọc Hy

Nhà báo Trần Ngọc Hy, người Cà Mau, tham gia kháng chiến chống Pháp ở tỉnh Bạc Liêu xưa. Ông viết chuyện vui chữ “T” đăng báo “RÙM”, tức rừng U Minh - tờ báo tường nội bộ cơ quan Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, đóng ở Chiến khu U Minh trên đất Cà Mau thời 9 năm kháng Pháp, khoảng 1949-1950.

Báo Minh Hải - Niềm tự hào chưa cạn tỏ

Báo Minh Hải là tiền thân của Báo Bạc Liêu, Cà Mau ngày nay. Hơn 20 năm hoạt động, tờ báo này đã trở thành chiếc nôi rèn luyện cho thế hệ báo chí sau ngày thống nhất đất nước. Từ đây, đã có nhiều nhà báo trưởng thành, trở thành cán bộ lãnh đạo của báo chí, văn học nghệ thuật 2 tỉnh và Trung ương, nhiều nhà báo trở thành những tài danh báo chí, văn chương. Hướng tới kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6, chúng tôi trân trọng giới thiệu tâm tình của một nhà báo, nhà văn, người đã sống trọn vẹn suốt thời gian măng sét Báo Minh Hải tồn tại trong lòng độc giả, cùng bạn đọc hôm nay.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài cuối: Ðiểm sáng xoá nghèo

Trên cơ sở trợ lực từ nhiều chương trình, chính sách, sự chung tay góp sức của cộng đồng; các cấp uỷ đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh đã sâu sát trong dân, nắm chặt hoàn cảnh hộ nghèo để triển khai đồng loạt biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; đồng thời giúp người nghèo thay đổi nếp nghĩ, cách làm, khơi gợi ý chí phấn đấu thoát nghèo, hướng đến tương lai tốt đẹp hơn.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài 2: Không để người nghèo bị bỏ lại phía sau

Cùng với triển khai đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia, Cà Mau thực hiện tốt phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Phong trào đã lan toả giá trị nhân văn trong cộng đồng, tạo động lực, niềm tin để hộ nghèo, người gặp hoạn nạn sớm ổn định cuộc sống, giúp các địa phương hiện thực hoá mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo

Cùng với phục hồi và tăng trưởng kinh tế, Cà Mau luôn đặt mục tiêu giảm nghèo là ưu tiên hàng đầu. Bằng những giải pháp đồng bộ, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, ý thức vươn lên của hộ nghèo, cuối năm 2023 Cà Mau còn 1,6% hộ nghèo (giảm 2.507 hộ nghèo), 1,56% hộ cận nghèo (giảm 922 hộ). Ðặc biệt, tỉnh có 170 ấp, khóm và 5 xã, phường, thị trấn xoá trắng hộ nghèo. Ðó là những điểm sáng, lan toả kinh nghiệm, cách làm hay và là động lực trong hành trình giảm nghèo bền vững của tỉnh.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài cuối: Phải thật sự gần dân, sát cơ sở

Đến thời điểm này, có thể khẳng định chủ trương trước đây của Huyện uỷ Phú Tân về cải tạo vườn tạp, trồng hoa màu, mang lại hiệu quả kinh tế hộ; hay như việc tận dụng trồng cây xanh ven sông để ngăn chặn sạt lở... đã mang lại kết quả đáng tự hào, được Nhân dân trong huyện tích cực hưởng ứng tham gia, lan toả. Nhìn từ Phú Tân, các địa phương khác có điều kiện tương tự, học tập làm theo và cũng đạt kết quả đáng phấn khởi. Bài học rút ra là cái gì mang lại lợi ích thiết thực vì việc chung sẽ được người dân tích cực đồng lòng chung tay, góp sức.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài 2: ...Ðến chỉ thị cấp bách

Trước những biến đổi khó lường của thời tiết, ngày 16/2/2024, Huyện uỷ Trần Văn Thời đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/HU (Chỉ thị 09) về tăng cường các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả do hạn hán gây ra, nhằm huy động sức mạnh cả hệ thống chính trị để ứng phó, giảm thiểu tác động. Ông Nguyễn Minh Nhứt, Bí thư Huyện uỷ Trần Văn Thời, cho biết, Chỉ thị 09 ban hành phù hợp thực tiễn, tạo được sự đồng thuận, tham gia tích cực của các tầng lớp Nhân dân, tạo chuyển biến trong nhận thức, hành động của từng cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên... vì việc chung.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo

Trong quá trình chỉ đạo, điều hành bộ máy chính trị của Ðảng và Nhà nước, có những việc cần định hướng với tầm nhìn chiến lược dài hơi, có quá trình thực hiện mang tính giai đoạn; có những việc mang tính cấp bách, cần tập trung xử lý ngay, dứt điểm trong thời khắc nhất định. Song, tất cả đều hướng đến mục tiêu là nhằm lan toả chủ trương hợp lòng dân, sát thực tế, được cụ thể hoá đi vào đời sống Nhân dân, nâng cao nhận thức đúng đắn để cùng chung tay thực hiện nhiệm vụ chính trị với quyết tâm cao nhất vì sự an toàn, phát triển nhanh và bền vững của xã hội… Ðảng tăng cường sức mạnh, dân tin tưởng làm theo sẽ tạo nên nội lực vững chãi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Biển có vững, bờ mới yên - Bài cuối: Quân - dân nghĩa tình

“Trường Sa vì Tổ quốc”, “Cả nước vì Trường Sa”, những tiếng hô đồng thanh vang vọng giữa trùng khơi khi tàu rời cảng Trường Sa đã nói lên phần nào sự gắn bó máu thịt của tình quân - dân. Nghĩa tình ấy chính là sức mạnh để Trường Sa, vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, luôn luôn vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió.