Năm 1955, kỷ niệm 10 năm Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tôi là học sinh miền Nam - một đội viên thiếu niên vừa tròn 14 tuổi. Tôi may mắn được chọn vào đội học sinh miền Nam diễu hành qua lễ đài Ba Ðình - Hà Nội trong ngày lễ trọng đại đó. Niềm vui lớn nhất của chúng tôi là biết chắc thế nào cũng được gặp Bác Hồ.
Hơn 1 tháng luyện tập đội hình, chúng tôi vô cùng tận tâm và háo hức. Luyện tập đội hình đội ngũ đi trong ngày lễ lớn của quốc gia không phải là chuyện giản đơn. Nhưng chúng tôi không ai thoái chí, nản lòng mà rất kiên trì tập luyện. Chúng tôi không một ai muốn bị rớt lại, vì tất cả đều khao khát trông đợi ngày được gặp Bác Hồ.
Chúng tôi được phát đồng phục mới tinh và chiếc khăn quàng đội viên đỏ rực, được đưa về Thủ đô trước ngày lễ độ 1 tuần, để ráp đội hình chung và làm quen sân lễ. Ðối với trẻ con chúng tôi lúc đó, thời gian trôi như tia chớp và niềm vui cứ đến ào ào như những cơn dông. Ở Thủ đô 1 tuần, vừa luyện tập vừa được xe chở đi xem cảnh phố phường, ngày lễ đến lúc nào không hay.
Tranh: Minh Tấn
Tôi còn nhớ, hôm đó mới 3 giờ sáng, chúng tôi đã được cô giáo đánh thức. Ðúng 5 giờ sáng, đội hình học sinh, sinh viên của chúng tôi cùng tất cả các đội hình khác đã ngay ngắn, chỉnh tề trên quảng trường. Không biết người lớn ra sao, chứ trẻ con chúng tôi vô cùng hồi hộp. Tôi có cảm giác như trái tim mình khó có thể ở yên trong lồng ngực lâu hơn. Nhất là khi trên lễ đài lần lượt xuất hiện đoàn đại biểu Ðảng, Nhà nước, xuất hiện Bác Hồ. Hình như tất cả chúng tôi và mọi người chỉ kịp kêu lên: “Bác Hồ! Bác Hồ!”, rồi cứ thế để cho hình ảnh Bác nhoà đi qua màn lệ khao khát đợi chờ, sướng vui, xúc động.
Tôi không biết là bao nhiêu lâu sau, nhưng nhớ rất rõ phải lâu lắm trên lễ đài mới thôi giơ tay vẫy chào và phía dưới, sóng biển người mới thôi xào xạc. Buổi lễ bắt đầu và lúc đó Bác đọc diễn văn, giọng Bác thật ấm áp. Các đội viên vinh dự lại tiếp tục tặng hoa và quàng khăn đội viên cho Bác. Sau đó là lễ duyệt binh và tuần hành biểu dương lực lượng. Cứ mỗi lớp người qua lễ đài, bước chân dù có rầm rập đến đâu, đội ngũ dù có trùng điệp nhường nào, tất cả hướng về lễ đài mong được nhìn Bác thật lâu.
Ðó là lần đầu tiên trên miền Bắc tôi được nhìn thấy Bác Hồ. Sau này tôi còn được gặp Bác nhiều lần nữa, trong nhiều dịp khác nhau.
Tôi nhớ hoài chuyến đến trường bất ngờ của Bác vào giờ ăn trưa của chúng tôi. Hôm đó, bỗng nhiên chú Hiệu trưởng (hồi đó chúng tôi gọi chú chứ không gọi thầy) dẫn một ông già râu dài, với bộ áo cánh nâu kiểu nông dân miền Bắc hay mặc, đầu đội nón lá phụ nữ bước vào. Chúng tôi chưa hết ngơ ngác thì Bác bỏ nón, bỏ bộ râu cải trang. Bác cười rất tươi, rất phúc hậu. Bác nói:
"Các cháu cứ ăn cơm đi, Bác vào đây một chút thôi, để coi các chú, các cô nuôi các cháu ra sao"...
Bác đi giữa các dãy bàn suốt phòng ăn, dừng lại một số mâm hỏi han và vuốt tóc từng đứa một. Bác xuất hiện một chút vậy thôi mà gần như thu hút, đảo lộn hết thảy chúng tôi. Những năm ấy chúng tôi vẫn thường được Bác về thăm như thế. Quà của Bác mỗi lần về chẳng có gì ngoài những viên kẹo nhỏ Bác mang chia đều, nhất là vào những dịp hè, dịp Tết. Quà ít ỏi vậy mà chúng tôi đã nâng niu, ấp ủ, bao bọc rất kỹ lưỡng, chờ mang về Nam khoe với cha mẹ, anh chị, bạn bè, bà con cô bác, khoe với tất cả những ai từng khao khát mà chưa làm sao được gặp Bác Hồ.
Những năm 1955-1959, thượng khách nước ngoài đến thăm miền Bắc phải đi bằng đường thuỷ và cập bến Hải Phòng. Mỗi lần có khách quý, chúng tôi đều được đứng ở vị trí hai bên đường làm hàng rào danh dự để đón tiếp. Riết rồi chúng tôi quen đón tầm cỡ khách, để biết Bác có xuất hiện hay không. Thường trong những lúc Bác đi đón khách, Bác đứng trên chiếc xe mui trần, giơ tay vẫy chào hết thảy học sinh, cán bộ, đồng bào đứng dọc hai bên đường. Những năm 1960-1963, khi Sân bay Gia Lâm hoạt động trở lại, Bác thường đón khách ở đó.
Tôi nhớ mãi lần Bác Hồ đưa Tổng thống Xu-các-nô và phu nhân đến thăm Trường Ðại học Sư phạm Hà Nội của chúng tôi. Ðó là năm 1963, lần đó tôi cũng được chọn vào hàng ngũ danh dự để đón tiếp phái đoàn mà chúng tôi biết chắc được Bác Hồ đưa đến. Có đến 100 nữ sinh viên được chọn đứng hàng rào danh dự, chúng tôi đều phải mặc áo dài. Tôi được chọn đứng vào vị trí gần Bác Hồ nhất vì ở ngay bậc tam cấp cửa dẫn vào hội trường, nơi sinh viên đã tập trung đón khách.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần về thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh tư liệu. Nguồn Internet
Xe đỗ cách bậc thềm chừng 10 thước, bảo vệ theo Bác mở cửa, Bác bước ra. Bên xe bạn, Tổng thống và phu nhân cùng vài vị khách trong đoàn lần lượt xuống xe. Bác bước lại đón khách và đưa tay, ý chỉ lối cho khách vào hội trường. Tôi nhớ rất rõ, Tổng thống, phu nhân của Tổng thống và Bác đã đi ngang hàng đến bậc thềm. Ðến đó, Bác nhường khách lên trước, bản thân mình từ tốn bước theo sau.
Năm 1964, giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Sau lần gặp ấy, trường tôi phải đi sơ tán tận Thái Nguyên, nơi Bác và Trung ương ngày xưa đã ở. Lần gặp đó, là lần gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi cho đến ngày Bác qua đời.
Khi tôi là giáo viên dạy Văn Trường cấp 3 Ðan Phượng, Hà Nội, 1 tháng trước ngày Bác mất, chúng tôi được thông báo về tình trạng sức khoẻ của Bác gần như hằng ngày. Vậy mà sáng ngày 4/9, Ðài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam báo tin: “Hôm qua, vào lúc 9 giờ 47 phút, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh biệt chúng ta sau một cơn đau tim nặng...”.
Chúng tôi đã lắng nghe trong tiếng nấc của mỗi người, của chính mình. Khóc mà không sao khỏi bật lên thành tiếng. Tiết đầu hôm đó, tôi vẫn đến lớp với học sinh. Tôi còn nhớ, chỉ ghi vỏn vẹn những chữ sau đây thiệt lớn trên bảng đen trước mặt các em:
“9 giờ 47 phút ngày 3/9/1969, Bác Hồ kính yêu vĩnh biệt chúng ta"
Tôi viết và biết rõ dòng chữ ấy không chỉ dặn các em mà còn để ghi xương khắc cốt trong mình. Hôm đó tôi và các học sinh cùng chung một bài học: Bài học về sự hy sinh lo cho nước, cho dân suốt cuộc đời của Bác.
Lễ tưởng niệm và việc viếng Bác tại Thủ đô kéo dài suốt 1 tuần. Cho đến bây giờ, tôi không còn nhớ trong tuần lễ đó chúng tôi đã dạy và học ra sao?. Tôi chỉ còn nhớ những câu chuyện đầy xúc động đã diễn ra ngay sau những ngày Bác qua đời. Như chuyện có rất nhiều ông già, bà lão từ các tỉnh xa xôi chưa một lần về Hà Nội, lần này đã đi bộ về Thủ đô viếng Bác. Có ông già mù loà từ Thái Nguyên đã theo con cháu xuống núi về Thủ đô để được gần gũi bên Bác. Một điều nữa tôi cũng nhớ rất rõ là, suốt 1 tuần diễn ra lễ tang Bác, trời miền Bắc luôn đổ mưa tầm tã. Và nước mắt của đồng bào mọi miền về tiễn Bác cũng tầm tã trên Quảng trường Ba Ðình.
Bác đã ra đi sau kỷ niệm Quốc khánh 2/9/1969 có 1 ngày (sau này mới biết là Bác mất ngày 2/9, nhưng không muốn Quốc tang trùng Quốc khánh nên Ðảng ta thông báo Bác mất vào ngày 3/9).
Lịch sử có những điệp khúc thật hào hùng. Lúc sinh thời Bác nào ngờ kỷ niệm 30 năm thành lập nước 2/ 9/1975, được diễn ra ngay năm đất nước vừa được giải phóng, đồng bào Bắc - Nam sum họp một nhà, đã thoả lòng mong đợi của Bác.
Ngày 2/9/1975, tôi vừa đặt chân xuống thị xã Cà Mau, lòng tôi day dứt một nỗi đau, một niềm thương tiếc Bác.
Khi trở về miền Nam, Lăng Bác làm chưa xong. Mãi đến năm 1980, tôi được cùng một đoàn cán bộ quản lý giáo dục ra học tập các trường tiên tiến phía Bắc. Khi đó, tôi mới có dịp vào viếng Lăng Bác. Tôi đã khóc suốt giờ chiếu phim dựng lại cuộc đời hoạt động của Bác. Mọi người cũng như tôi, khóc trong hàng chờ vào Lăng mà văng vẳng bên tai là những bài hát ca ngợi Bác Hồ. Không khí trong Lăng mát lạnh. Bác nằm đó, hồng hào và thanh thản như chỉ vừa đi vào một giấc ngủ sâu. Bác nằm đó, giữa các anh lính trẻ đứng canh giữ giấc ngủ hiền của Bác.
Ðâu phải chỉ có những thầy cô giáo chúng tôi mới hiểu nhiều về Bác mà cả dân tộc ta đều hiểu Bác thật nhiều. Bác là con người hơn hết thảy mỗi người chúng ta. Bác thật gần gũi nhưng cũng hết sức thiêng liêng và bất diệt. Ra đi, Bác đã để lại cho chúng ta tất cả.
Tình yêu đối với Bác Hồ sâu nặng bao la nói sao cho hết. Tôi chỉ muốn thổ lộ một điều bình dị nhất: Ước gì! Ước gì Bác vẫn còn sống được với chúng ta cho đến bây giờ!
Ðàm Thị Ngọc Thơ