ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 26-3-25 20:38:55
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

Nơi ngã ba sông ngày ấy - bây giờ

Báo Cà Mau

Tôi có rất nhiều điều để viết về thị trấn Thới Bình - thị trấn nằm yên bình bên ngã ba Sông Trẹm, nơi tiếp giáp giữa kênh xáng Chắc Băng và dòng Sông Trẹm hiền hoà. Bởi cứ mỗi khi chạm vào miền ký ức của một thời tuổi trẻ, là trong tôi bao hình ảnh về dòng sông, con đường, góc phố... ngày xưa cứ ùa về, dù tôi đã trải qua thời gian sống xa thị trấn này đã 50 năm.

Ngã ba Sông Trẹm, Thới Bình. Ảnh: HUỲNH LÂM

Ngã ba Sông Trẹm, Thới Bình. Ảnh: HUỲNH LÂM

Ngày ấy, không lâu sau ngày chiến tranh kết thúc, dì tôi là bà Hai Ðầm, người phụ nữ đóng vai “mỹ nhân kế” trong trận bộ đội ta đánh đồn Tân Bằng thời kháng chiến chống Pháp năm xưa. Dì từ Ðịnh Quán trở về thăm quê, thấy tôi còn long nhong chưa có việc làm, nên rủ lên chỗ dì kiếm việc làm ăn. Tôi đi và rồi lập nghiệp luôn nơi vùng đất miền Ðông, trở thành người con xa quê từ đó.

Lớp người nay đã ở độ tuổi trên dưới 70 như tôi đều có một quãng đời sống trong những năm đất nước chiến tranh, và phần đời dài hơn là giai đoạn từ tháng 4/1975 đến nay - giai đoạn trong hoà bình. Tôi xa nhà vào cuối năm 1975, quê nhà cùng đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh, ngoài nỗi mừng vui của người dân vì không còn cảnh chết chóc do bom đạn, thay vào đó là không khí hăng say của mọi người bắt tay vào khôi phục sản xuất, xây dựng quê hương.

Lúc ấy, thị trấn mà thời Việt Nam Cộng hoà đặt quận lỵ Thới Bình, về cơ sở hạ tầng vẫn chưa có thay đổi gì đáng kể. Trung tâm thị trấn vẫn là 2 dãy phố, khung nhà bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương đã in dấu rêu phong, nằm nép mình dưới tán 2 hàng còng độ vài mươi năm tuổi. Màu lá xanh của những cây còng làm dịu mát con đường nhỏ tráng xi măng lổ chổ những mảng bị hư, lộ ra những viên đá xanh lồi lõm. Con đường chính nằm giữa 2 dãy phố, từ đầu cầu Bà Ðặng chạy dài theo hướng ra Sông Trẹm đến chùa Bà Thiên Hậu là cuối phố. Gọi là “phố”, chứ thật sự thị trấn Thới Bình ngày ấy đâu được bao nhiêu ngôi nhà xây? Phía bên kia chiếc cầu nhỏ bắc qua kinh xáng là khu quân sự quận lỵ cũ, sau ngày giải phóng được phá dỡ, cất những dãy nhà làm việc của các cơ quan huyện Thới Bình. Chung quanh thị trấn, đường về Bà Ðặng, Bà Hội, Rạch Ông... cũng chủ yếu là đường đất. Phương tiện di chuyển của mọi người là... đôi chân, hoặc xuồng chèo.

Học trò ở thị trấn đi học thuận lợi hơn, quần áo, giày dép gọn gàng, nhờ con đường từ thị trấn lên trường học được trải đá khô ráo, sạch sẽ. Còn học trò ở vùng quanh trị trấn đi học vất vả hơn nhiều, nhất là vào mùa mưa đường sá lầy lội. Buổi sáng, dễ bắt gặp hình ảnh cha mẹ chèo xuồng đưa con ra thị trấn để đến trường, còn nếu lội bộ thì ghé nhà bà con ở thị trấn để rửa chân hoặc thay quần áo trước khi đến lớp. Tất cả thầy, trò đều đi bộ đến trường. Qua cầu Bà Ðặng, theo bờ kênh Chắc Băng vài trăm mét, giáp với trạm y tế duy nhất của quận là tới khu trường học.

Thới Bình thời đó chỉ có một trường trung học đệ nhất cấp (trung học cơ sở) hệ bán công, và ngôi trường tiểu học có đủ lớp của bậc học. Học trò học hết đệ tứ (lớp 9) muốn tiếp tục việc học là phải ra Cà Mau hoặc tỉnh, thành khác, hoặc phải rời ghế nhà trường, tuỳ hoàn cảnh mỗi người. Mỗi năm học trước ngày giải phóng, ngôi trường trung học ở Thới Bình chỉ có 1 lớp đệ tứ. Học xong đệ tứ là bạn bè tản lạc, mỗi người mỗi ngã. Sau ngày giải phóng, có nhiều người là học trò cũ của trường đã trở về, góp sức xây dựng quê hương, trong đó có không ít bạn bè tôi. Nhiều người trưởng thành qua công tác, trở thành cán bộ chủ chốt của huyện.

Thời kỳ trước giải phóng và cả giai đoạn chiến tranh vừa kết thúc, Thới Bình kết nối với Cà Mau chỉ bằng phương tiện duy nhất, là “những chuyến đò trên sông quê”. Bến tàu đò nằm ở cuối dãy phố, nơi giáp với Sông Trẹm. Mỗi ngày tàu khởi hành vào sáng sớm, ra đến Cà Mau là gần trưa. Tàu nhận hàng và chờ khách chừng một, hai giờ là khởi hành về. Mỗi lượt đi, về, người đi tàu đò cũng có trải nghiệm khó quên khi ngồi nhìn sông nước qua từng chặng đường, từng bến sông mà tàu ghé đón, trả khách. Chặng từ Cà Mau về Thới Bình, tàu chạy ra vàm Tắc Thủ rồi theo Sông Trẹm, qua Cái Tàu, Xóm Sở, rạch Ông Hương, Ông Bường, về đến Bà Mốp là đã nhìn thấy những mái nhà lô nhô nơi thị trấn. Ðến Bà Hội là tàu chuẩn bị cập bến rồi!

Không sao kể hết những bộn bề công việc, những khó khăn bủa vây của một thời kỳ thị trấn Thới Bình chuyển mình hoà vào cuộc sống mới. Nhiều vùng đất quanh thị trấn, những nơi bị bỏ hoang trong thời kỳ chiến tranh lại được khai phá để làm ruộng, lập vườn, làm vuông tôm. Màu xanh của những cánh đồng, của vườn cây không ngừng mở rộng, lan xa. Người dân về quê để làm ăn, sinh sống ngày càng nhiều. Gia đình tôi cũng về lại mảnh vườn nơi rạch Ba Chùa, dựng lại nhà mới và khôi phục lại màu xanh của đồng lúa, ruộng vườn.

Quê hương đất nước còn nghèo, lại vừa thoát ra khỏi chiến tranh nên nguồn lực cho nhu cầu phát triển như “muối bỏ biển”. Những năm đầu xa quê, mỗi lần về thăm nhà tôi thấy cũng không có nhiều thay đổi. Vẫn chèo xuồng ba lá hoặc chân trần lội bùn đất trên con đường từ thị trấn về nhà. Ban đêm nơi thị trấn, vẫn là ánh đèn điện chập chờn của chiếc máy đèn cũ hoạt động hết công suất vào đầu hôm và gần sáng. Ðường bê tông, điện lưới, những cây cầu kiên cố bắc qua kinh rạch vẫn còn là giấc mơ xa vời... Chỉ có thay đổi dễ thấy nhất là đồng lúa phủ màu xanh khắp nơi, và bắt đầu xuất hiện những vuông tôm xen lẫn bên những cánh đồng lúa ấy. Xuồng ghe ngược xuôi trên dòng Sông Trẹm, trên kinh xáng Chắc Băng, trên những kinh rạch... cho thấy cuộc sống sôi động của một miền đất thanh bình đang bước vào thời kỳ chuyển mình phát triển.

Cứ thế, thời gian kế tiếp, nếu khoảng cách 2 lần về của tôi xa hơn một chút là đã bắt đầu thấy những công trình mới. Ðầu tiên là dự án mở rộng khu trung tâm thị trấn; rồi từng bước những con đường được nâng cấp với mặt bê tông; những cây cầu kiên cố mới xây; công trình mở con đường từ cầu Rạch Ông phía đường Xuyên Á về Ðình thần Thới Bình, kết nối với cầu bắc ngang kinh xáng qua khu chợ...

Xin kể vài cột mốc thay đổi nơi quê nhà mà tôi khó quên: Ðó là lần đầu tiên từ Cà Mau về Thới Bình bằng đường bộ mà không còn phải ngồi đò như trước đây. Tôi không còn nhớ rõ năm nào, nhưng đâu khoảng sau năm 2000. Lần về ấy, thay vì phải gửi xe ở Cà Mau rồi xuống tàu đò về Thới Bình như lâu nay, mà đến Cà Mau là xe chạy luôn về Thới Bình. Từ Cà Mau theo Quốc lộ 63, đến chợ Tân Lộc rồi rẽ theo đường Láng Trâm. Tuy đường còn hẹp, khó đi, nhưng vào giai đoạn ấy, đi xe 4 bánh về tới Thới Bình là cả một thay đổi mang tính lịch sử rồi! Sau này khi có đường Xuyên Á, thì đường về Thới Bình mới thật sự không còn cách trở bởi những nhánh sông dài. Lúc ấy, “những chuyến đò trên sông quê” coi như cũng kết thúc một hành trình lịch sử! Dấu ấn của sự thay đổi trong lần về tiếp theo của tôi là thấy điện lưới về đến tận nhà.

Nói sao hết được niềm vui của bà con, và dĩ nhiên là của cả tôi nữa - đứa con sống xa quê khi trở về bỗng thấy đêm ở quê nhà sáng loà ánh điện. Những cây trụ điện bê tông lại đeo thêm trên mình những dây nhợ viễn thông, tạo nên một bức tranh quê vừa mới lạ và cũng đầy phấn khích. Sau này, khi những con đường bê tông xuất hiện trải dài từ thị trấn về đến tận xóm, ấp xa xôi, cùng tiếng xe gắn máy ngược xuôi tạo nên không khí sôi động vùng quê ven thị trấn thì cuộc sống của người dân cũng bắt đầu thay đổi nhanh hơn.

Những sớm mai học trò đạp xe đến trường dọc theo con lộ có những khoảng trồng xen những khóm hoa mười giờ mới nở, những hàng dâm bụt được cắt tỉa cẩn thận. Hình ảnh tươi đẹp pha lẫn màu sắc ấy cho người dân quê một cảm giác thư thái, bình yên. Nhưng có lẽ thay đổi làm tôi thích thú nhất là mới vài năm trước đây thôi, khi con lộ cặp bờ Sông Trẹm từ thị trấn Thới Bình đi Tân Bằng được mở rộng, lần đầu tiên xe hơi chạy về đến tận nhà. Quả thật những thay đổi ấy, ngày xưa chỉ có trong giấc mơ của tôi và của những người từng sống trong những năm chiến tranh và cả giai đoạn đầu sau giải phóng. Giấc mơ chứa đầy niềm hy vọng và vô cùng đẹp đẽ ấy nay đã thành hiện thực.

Làm sao kể hết được những đổi thay của thị trấn Thới Bình 50 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất. Nửa thế kỷ từng bước vươn mình vượt qua bao khó khăn để không bị bỏ lại phía sau. Những con đường mới mở; những công trình mới xây; cơ sở y tế, trường học khang trang, rộng khắp; điện lưới quốc gia, đường giao thông kết nối cùng với nhiều phương tiện di chuyển; điều kiện sống của người dân ngày càng cao, đầy đủ và phong phú... đã đưa thị trấn gần hơn với phố thị. Lớp người trẻ của thị trấn Thới Bình ngày nay có điều kiện học hành đến nơi đến chốn và tiếp thu khoa học - kỹ thuật nên nhiều người thành công bước khởi nghiệp nơi quê nhà. Vì thế, Thới Bình ngày nay không thiếu những tỷ phú trẻ. Có thể nói qua chặng đường nửa thế kỷ ấy,  thị trấn Thới Bình đã từng bước khoác lên mình chiếc áo mới, sẵn sàng bước vào hành trình của kỷ nguyên vươn mình cùng Cà Mau và cả nước./.

 

Nguyễn Sông Trẹm

 

Nhiều bất cập trong hỗ trợ cước phí hành trình tàu cá - Bài cuối: Sớm khắc phục sai sót

Nghị quyết 03 được ban hành với mục tiêu giảm bớt gánh nặng chi phí cho ngư dân trong việc lắp đặt và duy trì thiết bị giám sát hành trình, thực tế cho thấy nhiều ngư dân vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện chính sách này. Các nhà mạng, mặc dù đã nhận được hỗ trợ từ Nhà nước, vẫn thu phí cước từ ngư dân, điều này gây khó khăn cho các chủ tàu đã được xác nhận đủ điều kiện hưởng hỗ trợ. Trước những phản ánh đó, các cơ quan chức năng đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm cải thiện tình hình và đảm bảo quyền lợi cho ngư dân.

Nhiều bất cập trong hỗ trợ cước phí hành trình tàu cá - Bài 2: Ngư dân bức xúc nhà mạng

Với quy định hỗ trợ 100% phí cước kết nối VMS cho tàu cá đến hết năm 2026, Nghị quyết 03 được kỳ vọng sẽ giúp ngư dân giảm bớt gánh nặng tài chính và thúc đẩy hoạt động khai thác thuỷ sản bền vững. Tuy nhiên, việc triển khai chính sách này đang gặp phải không ít khó khăn, khiến ngư dân bức xúc.

Nhiều bất cập trong hỗ trợ cước phí hành trình tàu cá

Ðể nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống khai thác IUU theo khuyến nghị của EC, đồng thời giúp ngư dân giảm bớt khó khăn, duy trì thường xuyên hoạt động khai thác thuỷ sản theo hướng bền vững và bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới trên biển, ngày 1/8/2021, HÐND tỉnh Cà Mau ban hành Nghị quyết 03/2021/NQ-HÐND Nghị quyết 03 về hỗ trợ cước phí thuê bao dịch vụ giám sát tàu cá. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/2/2021- 31/12/2026.

Cà Mau hướng tới “thủ phủ” năng lượng xanh - Bài cuối: Chìa khoá đến Net zero

Tận dụng nguồn năng lượng “trời ban” để tạo ra năng lượng xanh, tích hợp vào quy trình sản xuất sạch không chỉ giúp tối ưu chi phí mà còn nâng cao hiệu quả kinh tế. Quan trọng hơn, đây là bước đi chiến lược hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero), xu hướng tất yếu trong nền kinh tế bền vững. Tại Cà Mau, nhiều doanh nghiệp đang chủ động đón đầu xu thế này, từng bước chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, giảm thiểu tác động đến môi trường và kiến tạo giá trị phát triển dài hạn.

Cà Mau hướng tới “thủ phủ” năng lượng xanh - Bài 2: “Kho báu xanh” đang chờ đánh thức

Nhắc đến Cà Mau, người ta thường nghĩ ngay đến những cánh rừng bạt ngàn, ôm trọn lấy mảnh đất tận cùng Tổ quốc. Rừng ngập mặn vươn mình ra biển, kiên cường chắn sóng, bảo vệ bờ cõi; rừng tràm U Minh Hạ trải dài xanh thẳm, đóng vai trò như lá phổi xanh của đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Những khu rừng này không chỉ giúp cân bằng hệ sinh thái mà còn mang lại giá trị kinh tế to lớn từ thị trường tín chỉ carbon. Nếu khai thác hiệu quả, nguồn tài nguyên quý giá này sẽ trở thành động lực giúp Cà Mau vươn lên trên bản đồ kinh tế xanh, đồng thời góp phần hiện thực hoá mục tiêu Netzero vào năm 2050.

Cà Mau hướng tới “thủ phủ” năng lượng xanh

Cà Mau đang từng bước khẳng định vị thế trung tâm năng lượng tái tạo của Việt Nam, không chỉ phát triển điện gió, điện mặt trời mà còn hướng tới sản xuất hydrogen, amoniac xanh và khai thác thị trường tín chỉ carbon. Với lợi thế rừng ngập mặn rộng lớn của khu vực, tỉnh có tiềm năng to lớn trong việc giảm phát thải, góp phần hiện thực hoá mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 (Netzero) vào năm 2050. Ðồng hành cùng cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại COP26 và lộ trình loại bỏ nhiệt điện than, Cà Mau đang vươn lên thành điểm sáng trong chiến lược tăng trưởng xanh, hướng tới “thủ phủ” năng lượng sạch bền vững.

Chuyển đổi ngành nghề cho cư dân ven biển - Gỡ khó hiện tại, khơi mở tương lai - Bài cuối: Không thể chậm trễ hơn

Gắn với chiến lược phát triển kinh tế biển, tỉnh Cà Mau đã cụ thể hoá các định hướng, chỉ đạo của Trung ương và địa phương với những giải pháp toàn diện, đồng bộ, hướng đến mục tiêu từng bước giảm dần cường lực khai thác, hạn chế các nghề ảnh hưởng lớn đến môi trường, nguồn lợi, hệ sinh thái biển; hướng đến phục hồi và cân bằng nguồn lợi thuỷ sản trong tự nhiên; góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất và phát triển sinh kế cho cộng đồng ngư dân ven biển.

Chuyển đổi ngành nghề cho cư dân ven biển - Gỡ khó hiện tại, khơi mở tương lai - Bài 2: Gian nan tìm sinh kế mới

Ðể giải quyết căn cơ, bền vững sinh kế cho hàng chục ngàn lao động không phải là vấn đề dễ dàng của bất kỳ địa phương nào. Bức tranh tổng thể đời sống cư dân ven biển ở địa phương cho thấy, vấn đề chuyển đổi ngành nghề cho người dân là yêu cầu cấp bách và cần được đánh giá thấu đáo, toàn diện, đặc biệt là nhìn thẳng vào những kết quả và cả những hạn chế trong thực tiễn triển khai thực hiện.

Cái Tàu - Ngọn nguồn thương nhớ!

Ðịa danh Cái Tàu ở U Minh Hạ gợi biết bao nỗi nhớ niềm thương với những ai gắn bó và cả sự háo hức tò mò với những người chưa đến. Cũng như nhiều địa danh lâu đời khác ở Cà Mau, Cái Tàu không chỉ là một cái tên, mà còn ẩn chứa trong lòng biết bao vỉa tầng trầm tích văn hoá, lịch sử gắn với biết bao thế hệ con người đã làm nên hồn cốt, bản sắc độc đáo của một vùng đất địa linh, nhân kiệt với bề dày lịch sử hàng trăm năm.

Chuyển đổi ngành nghề cho cư dân ven biển - Gỡ khó hiện tại, khơi mở tương lai

Là địa phương duy nhất ở Việt Nam có 3 mặt giáp biển, ngư trường rộng lớn, sản lượng khai thác luôn ở mức trên 200 ngàn tấn/năm, Cà Mau xác định kinh tế biển là một trong những trụ cột nền tảng và mũi nhọn đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Toàn tỉnh hiện có hơn 40 ngàn lao động gắn với nghề biển, tuy nhiên, đời sống của cư dân ven biển gặp nhiều khó khăn, thiếu tính bền vững, dễ tổn thương khi đối diện với hàng loạt thách thức từ biến đổi khí hậu, nguồn lợi thuỷ hải sản cạn kiệt, yêu cầu tái cấu trúc nghề biển trong bối cảnh mới... Dù đã nhận diện rõ vấn đề cấp bách của địa phương là chuyển đổi ngành nghề phù hợp, tạo sinh kế và hướng phát triển bền vững cho cư dân ven biển, thế nhưng hơn chục năm qua, công việc cấp bách này vẫn loay hoay ở mức... thí điểm.