ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 6-6-25 12:43:57
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nữ kiện tướng Khe Sanh

Báo Cà Mau (CMO) Những năm 1968-1970, trên tuyến đường 1C, có cô gái thanh niên xung phong (TNXP) gùi hàng đến nỗi tổn thương dây thanh không còn nói chuyện được. Sự kiện này giờ vẫn còn nhiều người nhớ. Cô gái ấy là Phạm Thị Bang (Tư Bang), Trung đội trưởng Trung đội II, Ðại đội Nguyễn Việt Khái III (Cà Mau) và cũng là người được phong danh hiệu “Kiện tướng Khe Sanh”.

Cô TNXP ngày nào giờ đã là cụ bà tuổi ngoài thất thập, sống tại Khóm 4, thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời. Nhắc lại chuyện này, bà Tư Bang hào hứng bảo: “Hồi đó hăng hái lắm. Lúc nào cũng nghĩ vận chuyển hàng riết về cho bộ đội mình đánh giặc để nước nhà mau thống nhất, đặng còn về với gia đình. Lúc đó, một tháng ba mươi ngày, tôi hầu như đi xuyên suốt, không nghỉ”.

Gần 9 năm gửi trọn tuổi thanh xuân trên tuyến đường 1C đầy gian khổ, ác liệt, với cô TNXP quê Khánh Bình, huyện Trần Văn Thời này, có thể nói đây là quãng đời để lại ấn tượng sâu đậm nhất. Vì vậy, hơn 50 năm trôi qua, bất ngờ được khơi gợi, ký ức một thời như sống dậy.

May mắn hơn đồng đội là còn được trở về khi đất nước hoà bình, giờ được hưởng niềm vui bên con cháu, với bà Tư Bang vậy là hạnh phúc. Ảnh: THÀNH LỘC

Nhớ hồi mới qua Hà Tiên, lúc đó khoảng tháng 11 - bước vào mùa khô, đơn vị được phân công chuyển hàng từ đất bạn Campuchia về trạm Tám Ngàn. Cứ 2-3 giờ chiều là lo nấu cơm, vắt lại rồi túm tụm cùng khăn gói lội bộ ra bờ sông Vĩnh Tế. Tới nơi, bóng đêm cũng vừa trùm phủ, mấy chục con người ở đó chờ đợi. Khi nào bắt được ám hiệu là nhanh chóng lội qua sông. Trước khi lội, đã chuẩn bị sẵn cỏ khô bỏ vào bọc cao su cột miệng lại làm phao bám vào.

Con sông Vĩnh Tế sâu lút đầu người, rộng mênh mông, ai biết lội thì bám vào phao, không biết lội thì phăng theo dây. Dọc hai bên bờ, có rất nhiều đồn bót giặc, nên lúc nào cây súng K2 cũng đặt sẵn trên phao. Chạm bờ, mặc cho quần áo ướt sũng, mặc gió thốc vào người lạnh buốt, ai nấy ôm đồ đạc chạy riết vô Sóc Chuốt (đất Campuchia) đợi xe chuyển hàng về để nhận. Hàng đủ loại, từ pháo cối, súng AK, đạn K2, đạn cối, thuốc men… Tất cả được bọc trong cao su (có sẵn cỏ), rồi bỏ vào bồng có may quai hai bên như ba-lô, quẩy sau lưng (gọi là gùi). Ðến bờ sông, như lượt đi: đợi ám hiệu, vượt sông, gùi hàng càn rừng về trạm. Ðêm tối, đi trong rừng tràm, chỗ rậm rạp um tùm, chỗ loang lỗ hố bom, cây ngã dọc ngang, những cô gái, chàng trai tuổi đời 16, 17, 18…, thậm chí 15, chưa quen đường sá, chưa quen gian khổ, lưng đeo hàng, chân mò mẫm, bước thấp bước cao, té sấp té ngửa là chuyện thường. Dẫu vậy, họ luôn nhủ lòng, phải cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ, ai cũng ý thức được vị trí quan trọng của công việc mình làm.

Cứ thế, công việc lặp đi lặp lại hàng đêm, giao hàng xong quay về nơi ở thì bình minh cũng đã rạng. Quần áo khô rồi lại ướt, ướt rồi lại khô… Mùa nước thì vận chuyển bằng xuồng. Những tháng nước cạn thì việc đẩy xuồng cũng đầy vất vả. Ðó là chưa kể càng về sau, giặc phát hiện đánh phá ác liệt, thương vong hàng ngày… Ðơn vị cũng được điều chuyển nhiều nơi, mức độ gian khổ, sự ác liệt của chiến tranh cũng tăng hơn… Nhưng bất chấp gian khổ, bất chấp đạn bom, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, những cô gái, chàng trai TNXP vẫn dũng cảm, kiên cường, bằng cách này, cách khác đảm bảo những chuyến hàng vẫn nối mạch về đến các chiến trường. 

“Năm 1967 là bắt đầu chuyển hàng quyết liệt. Dồn sức đặng đánh trận Mậu Thân thống nhất đất nước. Nhưng cuối cùng không được…”, giọng bà vẫn đều đều trong miền ký ức.

TNXP trên tuyến 1C có tới hai phần ba là nữ. Hàng tháng thường chị em cũng nghỉ vài ngày vì đuối sức, mệt mỏi, hay những ngày bệnh phụ nữ. Nhưng nghe kể rằng, riêng cô TNXP Phạm Thị Bang thì gần như đi xuyên suốt tháng này qua tháng nọ chẳng chịu nghỉ ngày nào.

Rồi một lần giặc đổ quân, bà bị thương, bị lạc đồng đội, suýt mất mạng. “Tôi được đơn vị Huyện đội Hà Tiên phát hiện, đưa vào bệnh viện Hà Tiên chữa trị. Tới được bệnh viện cũng đã 6 ngày, mấy vết thương trên đùi bị hoại tử lở loét. Các y, bác sĩ bệnh viện phải đi kiếm tổ ong lấy mật về đổ vô bông gòn đắp lên vết thương cho tôi. Kiên trì như vậy ròng rã 6 tháng trời, cuối cùng chân cũng hồi phục và tôi được đưa về đơn vị”. Lắng đọng tâm tư, bà kể tiếp, giọng bùi ngùi: “Họ tốt, tận tình, có tâm lắm, từ các đồng chí Huyện đội Hà Tiên, tới các y, bác sĩ của bệnh viện. Nếu không, thân xác mình đã gửi lại trong rừng sâu rồi. Nhưng đau đớn một điều, sau đó khi dời về núi Ðá Dựng, bệnh viện bị bỏ bom, hy sinh gần hết”.

Tháng 7/1968, có một sự kiện làm nức lòng quân và dân ta, đó là chiến thắng Khe Sanh, đánh bại căn cứ quân sự quy mô lớn của Mỹ - ngụy ở Ðường 9 - Khe Sanh. Cổ vũ tinh thần chiến thắng, trên tuyến bấy giờ có phát động phong trào thi đua đạt danh hiệu “Kiện tướng Khe Sanh”.

Phong trào diễn ra hết sức sôi nổi, ai cũng nhiệt huyết, hăng hái tham gia. Nữ TNXP Phạm Thị Bang, khi về lại đơn vị, chân dần hồi phục, lại tiếp tục xông vào công việc không chịu “thua chị, kém em”. Không chỉ “lấy lại phong độ” duy trì việc chuyển hàng liên tục, mà cô TNXP vóc dáng nhỏ nhắn này còn kiên cường, bền bỉ tập gùi vác lượng hàng mỗi chuyến tăng dần, từ 20 kg lên 30 kg, rồi trên 40 kg, hơn cả trọng lượng bản thân.

Công việc đang đều đặn, nhịp nhàng thì trong một lần gùi hàng, sức nặng hai quai bồng làm bà chấn thương vai - cổ, không còn nói chuyện được. Sau sự cố này, đơn vị ý định sắp xếp cho bà về lại tỉnh làm công việc khác bớt gian khổ, nặng nhọc hơn, nhưng bà không đồng ý. “Không nói được thì ra dấu, viết giấy, tôi vẫn đi gùi hàng được, ai tới đâu mình tới đó, tôi nhất quyết không chịu về”, giọng đầy phấn khích, bà kể.

Vậy rồi, năng suất gùi hàng của bà vẫn tăng, kết thúc đợt thi đua, bà xuất sắc được bình chọn danh hiệu “Kiện tướng Khe Sanh” trong sự tán thán, đồng tình của anh chị em đồng đội.

Bà Ðoàn Ngọc Ánh, nguyên Chính trị viên phó Ðại đội Nguyễn Việt Khái III, kể rằng: “Chị Tư Bang hồi đó giỏi lắm, công tác tốt lắm, chuyển hàng xuyên suốt. Lần đó chị bị thương cũng khá nặng, nhưng sức khoẻ hồi phục lại xông xáo gùi hàng. Thêm nữa, lúc đang quẩy hàng lên núi bên đất Campuchia, chị bị chấn thương, không còn nói chuyện được. Sau này gần giải phóng dần dần điều trị mới hồi phục. Hồi đó trong liên đội, chị Tư Bang, chị Bảy Vững và mấy người nữa được Khu đoàn phong tặng danh hiệu “Kiện tướng Khe Sanh”. Chị Bảy Vững sau đó đã hy sinh…”.

Ông Nguyễn Minh Hùng, nguyên Ðại đội phó, Ðại đội Nguyễn Việt Khái III, hết sức ngợi khen khi nhắc về bà: “Thời đó chị Tư Bang sốt sắng lắm, luôn gương mẫu đi đầu. Chị được phong “Kiện tướng Khe Sanh” là rất xứng đáng”.

Năm 1970, giải tán TNXP, bà được chuyển sang đơn vị 195, rồi đơn vị 200 học y tá và dược tá, làm nhiệm vụ pha chế thuốc và phục vụ, chăm sóc thương binh. Với lòng nhiệt huyết, tính hoạt bát, lanh lẹ… bà cũng luôn được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Ra đi chỉ với một mong muốn góp phần thống nhất đất nước, vì vậy mà bà đi một mạch, bám lấy đơn vị, không chấp nhận về lại giữa chừng. Nhưng khi hoà bình, đơn vị 200 của bà sáp nhập vô Bệnh viện 115 (TP Hồ Chí Minh), thì bà lại xin thôi công tác để về quê, mặc dù bệnh viện ưu ái tạo điều kiện nơi ăn chốn ở, cho học tập nâng cao nghiệp vụ. “Giải phóng rồi, mừng muốn chết, chỉ nghĩ về với gia đình thôi, đâu mong danh lợi, so tính thiệt hơn gì”, bà bày tỏ.

Có đi qua cuộc chiến tranh mới thấy quý trọng giá trị của hoà bình. Vì vậy mà khi về quê tay trắng, mọi thứ phải làm lại từ đầu, cả vợ chồng bà đều là thương binh, sức khoẻ có hạn, tạo dựng cuộc sống cũng vô cùng vất vả, nhưng ông bà chẳng nề hà, luôn nỗ lực vươn lên.

Giờ thì mọi thứ đã ổn định, tuổi già được yên vui cùng người thân, con cháu, với bà vậy là hạnh phúc. Dẫu xã hội đôi khi còn những chuyện không tránh khỏi muộn phiền, nhưng bà vẫn vững niềm tin và luôn tự hào khi nhắc về một thời tuổi trẻ đã cống hiến hết mình cho Tổ quốc./.

 

Thuỳ Trâm - Huyền Anh

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.