Thứ tư, 3-9-25 06:51:38
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nửa đời tìm nhau

Báo Cà Mau Ở các địa phương miền Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm gặp một số cán bộ lão thành, học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc năm 1954. Trong câu chuyện kể của họ, ngoài ký ức đẹp về tấm lòng Nhân dân miền Bắc dành cho HSMN tham gia học tập, từ nơi ở, chén cơm, manh áo... còn là những mối tình “cơ duyên trời định”. Người còn sống giờ tuổi đã ngoài 80, nhưng khi nhắc nhớ về kỷ niệm ở miền Bắc, họ lại ngời lên những ký ức năm xưa.

Ông Huỳnh Quốc Hoàng, Bí thư Huyện uỷ Thới Bình, trân trọng trao Huy hiệu 55 tuổi Ðảng cho bà Nguyễn Thị Quý. (Ảnh gia đình nhân vật cung cấp)Ông Huỳnh Quốc Hoàng, Bí thư Huyện uỷ Thới Bình, trân trọng trao Huy hiệu 55 tuổi Ðảng cho bà Nguyễn Thị Quý. (Ảnh gia đình nhân vật cung cấp)

Lần tìm những nhân chứng lịch sử tập kết ở bến Sông Ðốc, chúng tôi gặp ông Lê Sang (Sáu Si), sinh năm 1942, người gốc huyện Thới Bình, hiện cư ngụ tại quận Gò Vấp (TP Hồ Chí Minh). Gia đình ông có cả thảy 11 anh, chị em và có 3 người tập kết ra Bắc.

“Anh thứ Hai và thứ Ba theo đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc ngay sau những ngày đầu thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ. Cha tôi (ông Lê Văn Chương) khi đó là cán bộ Huyện uỷ Thới Bình, nên chuyện các con tham gia cách mạng đều được ưng thuận và cổ vũ”, ông Sang kể.

Lần lượt các anh, chị thứ Hai, Ba, Tư, Năm tham gia kháng chiến, đến năm 1954, ông Sang (12 tuổi) là con thứ Sáu trong gia đình được cha đưa lên tàu tham gia chuyến cuối tại bến Sông Ðốc.

“Tôi may mắn hơn các bạn thời ấy, ra Bắc cùng 2 người anh. Mỗi người học một ngành: anh Hai học bác sĩ, sau đó được đưa sang Liên Xô đào tạo chuyên sâu, anh về nước công tác ở Hà Nội, cưới vợ người Hà Nội rồi có lệnh hành quân về Nam phục vụ kháng chiến. Sau ngày đất nước giải phóng, anh Hai công tác ở tỉnh Cửu Long (Vĩnh Long) và đón chị cùng vào. Anh, chị Hai sau khi mất được an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Vĩnh Long. Anh Ba tham gia công tác tại Phòng Chính trị Hậu cần Sư đoàn 363, thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân, cưới vợ người Nghệ An, vượt Trường Sơn về Nam sau năm 1968 và công tác ở Minh Hải (nhưng sau đó anh chị mất liên lạc do hoàn cảnh 2 miền Nam - Bắc). Tôi ở lại học Tài chính, đến năm 1970 mới về Nam và được tổ chức phân công công tác tại tỉnh An Giang cho đến ngày nghỉ hưu”, ông Lê Sang kể.

Gia đình ông Sang có 2 người anh hy sinh, 5 người còn lại đều là thương binh. Năm 1985, gia đình ông được Nhà nước tuyên dương gia đình Cách mạng gương mẫu; năm 2010, mẹ ông (bà Nguyễn Thị Lén) được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Theo lời kể của ông Sang, tôi tìm gặp người chị dâu thứ Ba, bà tên Nguyễn Thị Quý, người gốc Nghệ An. Hai người cưới nhau thời ông Lê Ðại Tảng (anh Ba ông Sang) tập kết, công tác ngoài Bắc. Ông, bà có với nhau 2 con: 1 gái, 1 trai. Năm 1968, ông Tảng có lệnh trở về Nam tiếp tục công tác, kháng chiến, rồi bẵng đi một thời gian dài, đến sau giải phóng, hai người không liên lạc được, anh Ba của ông cũng không có điều kiện trở ra Nghệ An tìm gia đình. Mười năm sau giải phóng, ba mẹ ông Tảng đồng ý hôn sự mới cho con. Gia đình mới, ông Tảng có 1 người con. Ðến năm 1993, bà Quý từ Nghệ An, lần theo địa chỉ ngày xưa ông Tảng để lại, tìm về gia đình bên nội.

Bà Quý lục lại ký ức: “Năm ông Tảng chia tay về Nam, tôi ở lại bám trụ kháng chiến và nuôi con. Hoà bình bao nhiêu năm, tôi vẫn mong chờ tin ông nhưng bặt vô âm tín. Phần gia cảnh khó khăn, phần vết thương thời kháng chiến tái lại, nên mãi đến năm 1993, tôi mới cùng 2 con tìm đường vào Minh Hải theo lời kể về quê hương của ông ngày xưa. May thay, khi tìm đến huyện, hỏi về gia đình ông, nhiều người biết đến nên tìm dễ”.

Trước khi dắt cháu vào nhà, bà Quý lấy hết can đảm của một cựu giáo chức, của chiến sĩ từng dũng mãnh trước làn bom đạn. Gia đình nhà chồng trước mắt bà là những thương binh, cựu nhà giáo, cán bộ hưu trí như những người đồng đội của bà ở quê. Họ cũng từ chiến trường trở về khi quê hương im tiếng súng. Không lời trách, câu nói nặng nhẹ, họ đón bà vào nhà như cách mà ngày xưa những người thân của họ tập kết ra Bắc được Nhân dân ngoài ấy chào đón, trân quý. Những giọt nước mắt lăn nhiều hơn trên đôi gò má hốc hác của bậc làm cha, làm mẹ, của những người con trẻ. Cả nhà bỗng im thinh để chờ nghe ý kiến của người trong cuộc. Ngày gặp lại nhau, ai cũng nghĩ tình cảnh éo le “một kiểng hai quê” khó mà chấp nhận được.

Ngày chiến tranh ác liệt, chiến sĩ ở mặt trận dũng cảm lao vào trận địa, quyết tiêu diệt địch để cứu sống đồng đội, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, nhưng đôi khi sụp ngã trước cảnh tình ngang trái của bản thân trong thời bình. Một câu nói thú nhận sẽ làm lắng dịu không khí trầm lắng ấy ngay lập tức. Những gì mong chờ đã đến. Bản lĩnh của người lính giúp họ nhận nhau. Phận làm mẹ, làm vợ mấy ai chịu cảnh “chung đụng”? Thế mà có hai người mẹ, người vợ đã làm được chuyện ấy. Họ nhận nhau là chị em đặc biệt nhất! Tuy ít gặp nhau từ ngày chấp nhận, nhưng chòm xóm cũng không nghe lời trách móc, giận dỗi gì về nhau.

Cách xử trí của gia đình nhà chồng cũng phần nào an ủi tình cảnh mẹ con bà Quý vượt ngàn cây số tìm người thân. Một khoảng vườn gần 2 công phía ruộng xanh mướt, cánh đồng nhìn ngút tầm mắt trở thành quê hương thứ hai của họ. Ðó là của hồi môn nhà chồng dành riêng để con dâu và cháu nội định cư, tiếp tục học tập và đến nay đều công tác trong ngành giáo dục. Năm nay, bà Quý ở tuổi 88, sức yếu nhiều, vừa qua, Huyện uỷ Thới Bình trao tặng Huy hiệu 55 năm tuổi Ðảng cho bà, cả gia đình, họ hàng đều phấn khởi. Về phận con của ông Tảng, ông Sang cho biết: “Anh em tụi nó (cả con chị trước và sau) cũng thông cảm, thấu hiểu nhau nên không ai bàn đến chuyện người lớn, thân thiết cho đến bây giờ”.

Trải qua 70 năm sau tập kết, nửa thế kỷ, những mối tình trên miền đất mới, giờ mỗi tư liệu, hiện vật và nhân chứng còn sống là một câu chuyện, là hiện thân của khát vọng và tinh thần bất khuất, quả cảm. Một thời “Ði vinh quang - Ở anh dũng” vẫn mãi mãi là thế hệ vàng son của lịch sử dân tộc. Xưa họ đã hy sinh vì niềm hạnh phúc chung, giờ thế hệ con, cháu họ lại tiếp bước vinh quang. Còn họ, đây là thời điểm thụ hưởng niềm hạnh phúc, sum vầy bên gia đình, con cháu; buông bỏ hết muộn phiền, lo toan mà an nhàn tuổi xế chiều.

Anh Lê Hải Tân, con trai bà Nguyễn Thị Quý: “Ngày mẹ đưa tôi vào Nam tìm bố, tôi thấu hiểu bao khó khăn, khổ cực không ngăn được tình cảm. Quê nội với tôi ngày đó lạ lẫm, nhưng bằng tình thương yêu của gia đình bên nội, chúng tôi đã dần quen và gắn bó với quê hương thứ hai này. Tôi được ông, bà khích lệ, động viên tiếp tục theo học và anh em tôi hoàn thành di nguyện, trở thành những người giáo viên trên bục giảng. Giờ bố đã mất, mẹ tuổi già, mình không nhắc lại quá khứ, nhưng những ký ức đẹp cần được trân quý, tôn vinh”.

 

Phong Phú

 

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.