ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 07:10:46
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nửa đời tìm nhau

Báo Cà Mau Ở các địa phương miền Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm gặp một số cán bộ lão thành, học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc năm 1954. Trong câu chuyện kể của họ, ngoài ký ức đẹp về tấm lòng Nhân dân miền Bắc dành cho HSMN tham gia học tập, từ nơi ở, chén cơm, manh áo... còn là những mối tình “cơ duyên trời định”. Người còn sống giờ tuổi đã ngoài 80, nhưng khi nhắc nhớ về kỷ niệm ở miền Bắc, họ lại ngời lên những ký ức năm xưa.

Ông Huỳnh Quốc Hoàng, Bí thư Huyện uỷ Thới Bình, trân trọng trao Huy hiệu 55 tuổi Ðảng cho bà Nguyễn Thị Quý. (Ảnh gia đình nhân vật cung cấp)Ông Huỳnh Quốc Hoàng, Bí thư Huyện uỷ Thới Bình, trân trọng trao Huy hiệu 55 tuổi Ðảng cho bà Nguyễn Thị Quý. (Ảnh gia đình nhân vật cung cấp)

Lần tìm những nhân chứng lịch sử tập kết ở bến Sông Ðốc, chúng tôi gặp ông Lê Sang (Sáu Si), sinh năm 1942, người gốc huyện Thới Bình, hiện cư ngụ tại quận Gò Vấp (TP Hồ Chí Minh). Gia đình ông có cả thảy 11 anh, chị em và có 3 người tập kết ra Bắc.

“Anh thứ Hai và thứ Ba theo đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc ngay sau những ngày đầu thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ. Cha tôi (ông Lê Văn Chương) khi đó là cán bộ Huyện uỷ Thới Bình, nên chuyện các con tham gia cách mạng đều được ưng thuận và cổ vũ”, ông Sang kể.

Lần lượt các anh, chị thứ Hai, Ba, Tư, Năm tham gia kháng chiến, đến năm 1954, ông Sang (12 tuổi) là con thứ Sáu trong gia đình được cha đưa lên tàu tham gia chuyến cuối tại bến Sông Ðốc.

“Tôi may mắn hơn các bạn thời ấy, ra Bắc cùng 2 người anh. Mỗi người học một ngành: anh Hai học bác sĩ, sau đó được đưa sang Liên Xô đào tạo chuyên sâu, anh về nước công tác ở Hà Nội, cưới vợ người Hà Nội rồi có lệnh hành quân về Nam phục vụ kháng chiến. Sau ngày đất nước giải phóng, anh Hai công tác ở tỉnh Cửu Long (Vĩnh Long) và đón chị cùng vào. Anh, chị Hai sau khi mất được an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Vĩnh Long. Anh Ba tham gia công tác tại Phòng Chính trị Hậu cần Sư đoàn 363, thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân, cưới vợ người Nghệ An, vượt Trường Sơn về Nam sau năm 1968 và công tác ở Minh Hải (nhưng sau đó anh chị mất liên lạc do hoàn cảnh 2 miền Nam - Bắc). Tôi ở lại học Tài chính, đến năm 1970 mới về Nam và được tổ chức phân công công tác tại tỉnh An Giang cho đến ngày nghỉ hưu”, ông Lê Sang kể.

Gia đình ông Sang có 2 người anh hy sinh, 5 người còn lại đều là thương binh. Năm 1985, gia đình ông được Nhà nước tuyên dương gia đình Cách mạng gương mẫu; năm 2010, mẹ ông (bà Nguyễn Thị Lén) được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Theo lời kể của ông Sang, tôi tìm gặp người chị dâu thứ Ba, bà tên Nguyễn Thị Quý, người gốc Nghệ An. Hai người cưới nhau thời ông Lê Ðại Tảng (anh Ba ông Sang) tập kết, công tác ngoài Bắc. Ông, bà có với nhau 2 con: 1 gái, 1 trai. Năm 1968, ông Tảng có lệnh trở về Nam tiếp tục công tác, kháng chiến, rồi bẵng đi một thời gian dài, đến sau giải phóng, hai người không liên lạc được, anh Ba của ông cũng không có điều kiện trở ra Nghệ An tìm gia đình. Mười năm sau giải phóng, ba mẹ ông Tảng đồng ý hôn sự mới cho con. Gia đình mới, ông Tảng có 1 người con. Ðến năm 1993, bà Quý từ Nghệ An, lần theo địa chỉ ngày xưa ông Tảng để lại, tìm về gia đình bên nội.

Bà Quý lục lại ký ức: “Năm ông Tảng chia tay về Nam, tôi ở lại bám trụ kháng chiến và nuôi con. Hoà bình bao nhiêu năm, tôi vẫn mong chờ tin ông nhưng bặt vô âm tín. Phần gia cảnh khó khăn, phần vết thương thời kháng chiến tái lại, nên mãi đến năm 1993, tôi mới cùng 2 con tìm đường vào Minh Hải theo lời kể về quê hương của ông ngày xưa. May thay, khi tìm đến huyện, hỏi về gia đình ông, nhiều người biết đến nên tìm dễ”.

Trước khi dắt cháu vào nhà, bà Quý lấy hết can đảm của một cựu giáo chức, của chiến sĩ từng dũng mãnh trước làn bom đạn. Gia đình nhà chồng trước mắt bà là những thương binh, cựu nhà giáo, cán bộ hưu trí như những người đồng đội của bà ở quê. Họ cũng từ chiến trường trở về khi quê hương im tiếng súng. Không lời trách, câu nói nặng nhẹ, họ đón bà vào nhà như cách mà ngày xưa những người thân của họ tập kết ra Bắc được Nhân dân ngoài ấy chào đón, trân quý. Những giọt nước mắt lăn nhiều hơn trên đôi gò má hốc hác của bậc làm cha, làm mẹ, của những người con trẻ. Cả nhà bỗng im thinh để chờ nghe ý kiến của người trong cuộc. Ngày gặp lại nhau, ai cũng nghĩ tình cảnh éo le “một kiểng hai quê” khó mà chấp nhận được.

Ngày chiến tranh ác liệt, chiến sĩ ở mặt trận dũng cảm lao vào trận địa, quyết tiêu diệt địch để cứu sống đồng đội, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, nhưng đôi khi sụp ngã trước cảnh tình ngang trái của bản thân trong thời bình. Một câu nói thú nhận sẽ làm lắng dịu không khí trầm lắng ấy ngay lập tức. Những gì mong chờ đã đến. Bản lĩnh của người lính giúp họ nhận nhau. Phận làm mẹ, làm vợ mấy ai chịu cảnh “chung đụng”? Thế mà có hai người mẹ, người vợ đã làm được chuyện ấy. Họ nhận nhau là chị em đặc biệt nhất! Tuy ít gặp nhau từ ngày chấp nhận, nhưng chòm xóm cũng không nghe lời trách móc, giận dỗi gì về nhau.

Cách xử trí của gia đình nhà chồng cũng phần nào an ủi tình cảnh mẹ con bà Quý vượt ngàn cây số tìm người thân. Một khoảng vườn gần 2 công phía ruộng xanh mướt, cánh đồng nhìn ngút tầm mắt trở thành quê hương thứ hai của họ. Ðó là của hồi môn nhà chồng dành riêng để con dâu và cháu nội định cư, tiếp tục học tập và đến nay đều công tác trong ngành giáo dục. Năm nay, bà Quý ở tuổi 88, sức yếu nhiều, vừa qua, Huyện uỷ Thới Bình trao tặng Huy hiệu 55 năm tuổi Ðảng cho bà, cả gia đình, họ hàng đều phấn khởi. Về phận con của ông Tảng, ông Sang cho biết: “Anh em tụi nó (cả con chị trước và sau) cũng thông cảm, thấu hiểu nhau nên không ai bàn đến chuyện người lớn, thân thiết cho đến bây giờ”.

Trải qua 70 năm sau tập kết, nửa thế kỷ, những mối tình trên miền đất mới, giờ mỗi tư liệu, hiện vật và nhân chứng còn sống là một câu chuyện, là hiện thân của khát vọng và tinh thần bất khuất, quả cảm. Một thời “Ði vinh quang - Ở anh dũng” vẫn mãi mãi là thế hệ vàng son của lịch sử dân tộc. Xưa họ đã hy sinh vì niềm hạnh phúc chung, giờ thế hệ con, cháu họ lại tiếp bước vinh quang. Còn họ, đây là thời điểm thụ hưởng niềm hạnh phúc, sum vầy bên gia đình, con cháu; buông bỏ hết muộn phiền, lo toan mà an nhàn tuổi xế chiều.

Anh Lê Hải Tân, con trai bà Nguyễn Thị Quý: “Ngày mẹ đưa tôi vào Nam tìm bố, tôi thấu hiểu bao khó khăn, khổ cực không ngăn được tình cảm. Quê nội với tôi ngày đó lạ lẫm, nhưng bằng tình thương yêu của gia đình bên nội, chúng tôi đã dần quen và gắn bó với quê hương thứ hai này. Tôi được ông, bà khích lệ, động viên tiếp tục theo học và anh em tôi hoàn thành di nguyện, trở thành những người giáo viên trên bục giảng. Giờ bố đã mất, mẹ tuổi già, mình không nhắc lại quá khứ, nhưng những ký ức đẹp cần được trân quý, tôn vinh”.

 

Phong Phú

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.