ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 06:27:10
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Phát triển nguồn nhân lực người dân tộc Khmer

Báo Cà Mau Ngày 14/3/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 402/QÐ-TTg phê duyệt Ðề án Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số (DTTS) trong thời kỳ mới (Ðề án); ngày 10/1/2018, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 19-CT/TW về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới.

Thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Trung ương, nhiều địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt hiệu quả khả quan, góp phần xây dựng hệ thống chính trị và lực lượng vũ trang (LLVT) vững mạnh, tạo sự đồng thuận cao, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường, củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc Khmer đối với Ðảng, Nhà nước, tích cực góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Chất lượng nâng cao

Theo đánh giá của Ban Cán sự Ðảng UBND tỉnh Trà Vinh: đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer của tỉnh hiện đạt chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị; tư tưởng kiên định, vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng; có lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, đoàn kết nhất trí, nêu cao ý thức tự lực tự cường, luôn phấn đấu để lãnh đạo, tổ chức thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương.

Ông Lê Thanh Bình, Phó chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh, cho biết: “Tỉnh rất quan tâm công tác giảng dạy tiếng, chữ viết cho đồng bào dân tộc Khmer. Tuy vậy, cần quan tâm hơn nữa chất lượng giảng dạy, học tập, chú trọng giao tiếp tốt với bà con, đảm bảo tuyên truyền sâu sát và hiệu quả. Ðời sống đồng bào DTTS tỉnh phát triển nhanh và bền vững, đến nay 100% xã ở Trà Vinh đạt chuẩn nông thôn mới”.

Ông Thạch Mu Ni, Phó trưởng ban Dân tộc tỉnh Trà Vinh, cho biết: “Là địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống (31,53%), nhiều năm qua, tỉnh triển khai thực hiện Ðề án đạt kết quả tốt. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc Khmer các cấp đều đạt trên 10% (19,85% cấp tỉnh; 23,25% cấp huyện và 16,68% cấp xã). Sự đóng góp của đồng bào dân tộc Khmer từ các chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn lực trong đồng bào vùng DTTS là rất lớn".

Theo bà Néang Sam Bô, Trưởng phòng Dân tộc huyện Tri Tôn (An Giang): "Huyện có 5 xã đông đồng bào dân tộc Khmer. Người DTTS chiếm 26,65% so với dân số toàn huyện. Nhiều năm qua, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và phát triển giáo dục - đào tạo, tỷ lệ người dân tộc Khmer trên địa bàn tham gia công tác ở các ngành, lĩnh vực cũng tăng và đảm bảo công tác tốt, hiệu quả".

Ông Kiên Ngọc Hone, người dân Khóm 1, thị trấn Trà Cú, huyện Trà Cú (Trà Vinh), phấn khởi: “Cán bộ địa phương là người dân tộc Khmer khi đến gặp gỡ, trao đổi nội dung, chương trình gì cũng dễ dàng, người dân chúng tôi dễ hiểu, vì cảm giác gần gũi như người nhà. Qua đó, chúng tôi vui mừng và làm theo hiệu quả”.

Ông Thạch Mu Ni cho biết thêm: “Về lý luận chính trị của cán bộ người dân tộc Khmer, tỉnh có 1 trình độ cử nhân, 82 cao cấp; 351 trung cấp và 1.432 sơ cấp. Về chuyên môn, đến tháng 7/2023, tỉnh có 1 tiến sĩ; 169 thạc sĩ; 2.731 đại học; 843 cao đẳng và 501 trung cấp. Lực lượng cán bộ người Khmer tăng, được đào tạo, bố trí sử dụng hiệu quả, từ đó thúc đẩy phát triển tư duy học tập trong toàn tỉnh. Trình độ dân trí phát triển, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về nếp sinh hoạt văn hoá, việc làm, thu nhập, nâng cao đời sống”.

Lớp bồi dưỡng tiếng Khmer cho cán bộ LLVT ở Trường Quân sự Quân khu 9.

Ðại tá Phạm Văn Sỹ, Phó cục trưởng Cục Dân vận, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhận định: “Cục ghi nhận những nỗ lực của LLVT Quân khu 9, cũng như các tỉnh, thành phố đã quan tâm thực hiện hiệu quả nội dung, dự án thành phần trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc. Do vậy, thời gian tới cần phát huy và đảm bảo tính hiệu quả hơn nữa, nhất là công tác tuyên truyền để cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ tầm quan trọng của việc học, bồi dưỡng tiếng dân tộc, cũng như vai trò công tác dân vận”.

Lớn mạnh lực lượng vũ trang

Ðại tá Lê Văn Thống, Phó chính uỷ Bộ Chỉ huy Quân sự (CHQS) tỉnh Trà Vinh, cho biết: “Xuất phát từ vai trò của đội ngũ cán bộ người DTTS đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những năm qua, Ðảng uỷ, Bộ CHQS tỉnh luôn lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có nhiều chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ này”.

Hiện, đơn vị có 17% quân số là cán bộ, chiến sĩ dân tộc Khmer; 15% đảng viên dân tộc Khmer. Ngoài ra, cán bộ, chiến sĩ trong LLVT còn được quan tâm bồi dưỡng tiếng, chữ viết Khmer. “Ðến nay, cán bộ, chiến sĩ LLVT ở Trà Vinh biết nói tiếng Khmer 155 đồng chí, biết đọc và viết tiếng Khmer 50 người. Qua đó, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền đến với bà con vùng đồng bào dân tộc”, Ðại tá Lê Văn Thống, Phó chính uỷ Bộ CHQS tỉnh Trà Vinh, thông tin.

Trang bị tiếng Khmer tạo điều kiện thuận lợi giúp cán bộ, LLVT tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vùng đồng bào ở Cà Mau.

Ðại tá Lê Quang Luật, Phó chính uỷ Bộ CHQS tỉnh Cà Mau, thông tin: “Ðảng uỷ, Bộ CHQS tỉnh và cấp uỷ các cấp luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác học tập ngoại ngữ, tiếng dân tộc thiểu số, trong đó tập trung đào tạo tiếng Khmer là chủ yếu, nhằm nâng cao trình độ ngoại ngữ, tiếng DTTS cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh. Hằng năm, cán bộ, chiến sĩ được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng tiếng Khmer đều đạt và vượt chỉ tiêu, trình độ tiếng Khmer cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, nhất là đơn vị đóng quân trên địa bàn có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống”.

Bên cạnh đó, đối với người dân tộc Khmer đang công tác trong LLVT tỉnh Cà Mau, Ðảng uỷ, Bộ CHQS tỉnh thường xuyên quan tâm đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ ở các trường trong và ngoài quân đội. Tính đến nay, 100% sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp là người dân tộc Khmer có trình độ đại học.

Ðại tá Nguyễn Văn Rạng, Phó chính uỷ Trường Quân sự Quân khu 9, thông tin: “Những năm qua, trường đào tạo nhiều đối tượng, nội dung, trong đó có tiếng Khmer cho LLVT các đơn vị, địa phương. Ðến nay, trường mở hơn 23 khoá dạy tiếng Khmer và cơ bản hoàn thành chương trình, nhiệm vụ. Học viên học tiếng Khmer ở trường, ngoài học trên lớp còn thực tập thực tế, thực hành giao tiếp tiếng Khmer với người dân địa phương. Ðảm bảo chất lượng giao tiếp bằng tiếng dân tộc Khmer sau khi học viên trở về đơn vị công tác. Ngoài ra, trường còn tập trung vào 2 kỹ năng nghe và nói, đảm bảo tiếp xúc thuận lợi với bà con vùng đồng bào dân tộc Khmer”.

Trung tá Thạch Phú Cường, Chính trị viên phó Ban CHQS huyện Trà Cú (Trà Vinh), cho biết: “Huyện dân số đông, địa bàn rộng (15 xã, 2 thị trấn), cán bộ LLVT huyện cơ bản trên 50% là người dân tộc Khmer. Cả cán bộ người dân tộc Khmer và dân tộc khác đều nói và viết được tiếng Khmer. Từ đó, giúp công tác tuyên truyền sâu, sát, hiệu quả”.

Chia sẻ kinh nghiệm hoạt động, Thiếu tá Huỳnh Minh Triều, Trợ lý chính trị Ban CHQS huyện Trà Cú (Trà Vinh), nói: “Học tiếng của đồng bào dân tộc Khmer trước hết giúp cán bộ nâng cao kỹ năng, hiểu rõ về văn hoá, truyền thống của đồng bào, qua đó giúp ích cho công tác chuyên môn, tạo sự gần gũi với bà con. Tôi cũng được đào tạo chuyên sâu, chuyên ngành và bố trí vị trí công tác phù hợp, phát huy sở trường công tác”.

Ðại đức Hữu Nhiều, Trụ trì chùa Rạch Giồng, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình (Cà Mau), cho biết: “Gần đây, cán bộ cơ sở khi làm việc với sư và Ban quản pháp chùa có bước phát triển hơn so với trước về sử dụng tiếng Khmer. Chúng tôi rất vui vì đó là sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, chính quyền với đồng bào. Việc cán bộ không phải người đồng bào dân tộc Khmer nhưng giao tiếp bằng ngôn ngữ của đồng bào còn thể hiện sự gần gũi, tôn trọng và am hiểu về bản sắc văn hoá. Từ đó, công tác phối hợp hiệu quả hơn, đồng bào phật tử chùa cũng vui, thuận lòng, nhất là trong vận động xây dựng nếp sống văn minh, nông thôn mới”.

Ông Hữu Sếp, ấp Ðường Ðào, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình (Cà Mau), chia sẻ: “Cán bộ vào vùng đồng bào nói tiếng đồng bào thì chúng tôi xem như người nhà, trải lòng tiếp đón và lắng nghe. Ðó còn là niềm vinh hạnh của chúng tôi khi được quan tâm giữ gìn ngôn ngữ và bản sắc văn hoá”.

Công tác cán bộ, sử dụng cán bộ người dân tộc Khmer đã qua như Cà Mau, Trà Vinh nói riêng và các địa phương trong khu vực nói chung đang phát huy hiệu quả ấn tượng. Trong tình hình mới, các địa phương, đơn vị tiếp tục triển khai thực hiện mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn 2021-2025, đồng thời đảm bảo thực hiện hiệu quả các quy định liên quan công tác dân tộc./.

 

Phong Phú - Phúc Danh

 

Bên dòng Maspero

Khi mùa lễ hội Ok Om Bok tưng bừng, dòng sông Maspero cũng khoác lên mình tấm áo rực rỡ, hội tụ cả tinh thần lẫn văn hoá của cộng đồng các dân tộc anh em Kinh - Khmer - Hoa. Không chỉ là nơi diễn ra những cuộc đua ghe Ngo đầy hào hứng, dòng sông này còn là nhịp cầu nối giữa truyền thống, hiện tại và tương lai của vùng đất Sóc Trăng giàu bản sắc văn hoá các dân tộc.

Sức vươn Cù lao Tây

Giữa dòng Tiền Giang hiền hoà, nơi sóng nước mênh mang và đất phù sa màu mỡ, có một vùng đất đang lặng lẽ thay da đổi thịt: Cù lao Tây, thuộc huyện Thanh Bình, tỉnh Ðồng Tháp. Mảnh đất này từng một thời lận đận bởi giao thông trắc trở, kinh tế khó khăn, nhưng hôm nay, nhờ những chủ trương đúng đắn, sự đồng lòng của chính quyền và người dân, Cù lao Tây đã bừng sáng như một đoá sen vươn mình từ bùn lầy, thanh khiết, đầy sức sống.

Vì sự phát triển bền vững của đất Chín Rồng

Trong Báo cáo Kinh tế thường niên vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) vừa được Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố, đã phản ánh thực trạng về một bức tranh “khá xám” của đồng bằng với hàng loạt các thách thức và đặt ta nhiều vấn đề cho phát triển bền vững. Tại sao sự phát triển kinh tế của ÐBSCL tiếp tục “tụt lùi” trong nhiều năm liền và vùng đất chín rồng này rất cần một cuộc cách mạng trong tái cơ cấu lại mô hình tăng trưởng trong huy động nguồn lực, nhất là trong điều kiện các tỉnh, thành phố sẽ được sáp nhập lại với nhau.

Những vùng quê vượt qua nỗi đau

Sau 50 năm kiến thiết xây dựng quê hương, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn đó những chiến tích bi thương, oai hùng. Trở lại những địa chỉ năm xưa từng xảy ra các vụ thảm sát tang thương như: TP Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang; xã Trí Phải (huyện Thới Bình), xã Nguyễn Huân (huyện Ðầm Dơi), tỉnh Cà Mau... đều cảm nhận được sự thay đổi lớn lao. Ðó là những vùng quê bừng sáng, đi đầu trong các phong trào ở địa phương.

Nghề dệt của đồng bào Khmer vùng biên giới

Ðồng bào Khmer là 1 trong 54 dân tộc anh em không thể tách rời trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Những năm qua, Ðảng, Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến các dân tộc thiểu số, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đời sống của đồng bào Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long cải thiện rõ rệt.

Giữ nghề dệt thổ cẩm ở làng Chăm

Trong căn nhà gỗ 3 gian trưng bày hàng thổ cẩm truyền thống của đồng bào Chăm ở ấp Phũm Xoài, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu (tỉnh An Giang), lão Mohamach chậm rãi rót trà. Hơi nóng toả lên, hoà vào không khí tĩnh lặng của ngôi làng. Hôm nay là ngày lễ Ramadan, khách đến thăm vào dịp này không nhiều, nhưng họ muốn tìm hiểu văn hoá, phong tục của đồng bào, nên lão vui vẻ nhận lời.

Ðổi thay đất anh hùng

Mùa này, nắng nhuộm vàng những vườn cây trĩu quả bên bờ Sông Hậu, xuyên qua Cù lao Tân Quy, những con đường thẳng tắp, rợp bóng cây như minh chứng đất Cầu Kè đang khoác lên mình diện mạo mới; một vùng quê trù phú, điểm sáng trong phong trào xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Trà Vinh.

Tinh hoa mặn mà từ biển Bạc Liêu

Nằm ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc, Bạc Liêu từ lâu đã nổi danh với nghề làm muối truyền thống. Những cánh đồng muối trắng xoá trải dài, lấp lánh dưới ánh mặt trời, không chỉ là nguồn sinh kế của người dân địa phương mà còn là biểu tượng văn hoá độc đáo của miền Tây Nam Bộ. Nơi đây được coi là thủ phủ muối khi là một trong những nơi có diện tích sản xuất muối lớn nhất cả nước nằm ở 2 huyện: Hoà Bình và Ðông Hải. Với lịch sử hơn 100 năm hình thành và phát triển, diêm dân nơi đây đã tích luỹ được những kinh nghiệm thực tế và kế thừa nghề làm muối độc đáo qua bao thế hệ.

Muối Bạc Liêu và cơ hội vươn mình

Nếu so với các tỉnh, thành phố trong khu vực Nam Bộ thì Bạc Liêu là vùng đất được khai phá muộn màng. Ðến với vùng đất mới, các bậc tiền nhân Bạc Liêu đã biết khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có, tạo ra của cải, vật chất để nuôi sống bản thân và dùng để giao lưu, trao đổi phục vụ cho mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ đó, các ngành, nghề truyền thống ở Bạc Liêu lần lượt ra đời, trong đó một số nghề nổi tiếng như: trồng nhãn, đan đát và làm muối... Hầu hết các nghề này đã tồn tại và phát triển hơn 100 năm nay.

Hương tràm vùng biên

Tháng Giêng, trời biên giới Tây Nam hanh hao nắng. Nước bắt đầu rút nhanh trên các nhánh sông, để lại dòng kênh ven rừng sánh màu nâu đỏ của lá tràm khô, bờ kênh phơi mình trong nắng vàng óng ánh, ửng lên màu vàng cháy của phèn. Phía bên kia tuyến dân cư thưa thớt là vệt rừng tràm khô khát. Vậy là chúng tôi đã lọt thỏm vào khu vực 730 ha rừng tràm do Trung đoàn 30, Sư đoàn 4 quản lý dọc biên giới Tây Nam thuộc địa phận huyện Giang Thành và Hòn Ðất, tỉnh Kiên Giang.