ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 19-7-25 06:05:36
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

“Chắp cánh” hạt gạo đất Chín Rồng

Báo Cà Mau Vừa qua, Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) phối hợp với Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, TP Cần Thơ tổ chức lễ xuất khẩu lô hàng “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sang thị trường Nhật Bản với số lượng 500 tấn. Cái đáng phấn khởi ở đây không phải là số lượng, mà việc xuất khẩu lô hàng đầu tiên này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của ngành nông nghiệp và được xem là bước tiến ấn tượng trong sản xuất lúa gạo từ Ðề án 1 triệu héc-ta lúa đang triển khai ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL).

Nâng tầm hạt gạo phát thải thấp

Theo Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam, nhằm phục vụ kịp thời Ðề án 1 triệu héc-ta lúa, Hiệp hội đã tiến hành xây dựng nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” với sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT), các tổ chức quốc tế gồm: Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI), Tổ chức Phát triển Hà Lan (Dự án Chuyển đổi chuỗi giá trị lúa gạo - TRVC) và Ngân hàng Thế giới (WB)...

Nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” được Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam cấp cho sản phẩm gạo sản xuất theo quy trình kỹ thuật của Ðề án 1 triệu héc-ta được chính quyền và ngành nông nghiệp địa phương (cấp xã), hoặc tổ chức quốc tế chuyên ngành xác nhận, đảm bảo nguồn gốc (nơi sản xuất lúa, tên giống lúa, mùa vụ) và việc tuân thủ quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp của đề án.

Nông dân vùng ÐBSCL thu hoạch lúa trên cánh đồng tham gia Ðề án 1 triệu héc-ta.

Nông dân vùng ÐBSCL thu hoạch lúa trên cánh đồng tham gia Ðề án 1 triệu héc-ta.

Sau khi ban hành quy chế sử dụng nhãn hiệu, Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” cho 7 doanh nghiệp với tổng lượng gạo khoảng 20 ngàn tấn. Trong đó, Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An là một trong số các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận và đã hợp tác để xuất khẩu lô hàng “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sang thị trường Nhật Bản với 500 tấn.

Việc xuất khẩu lô gạo mang nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp”, trong đó có lô gạo xuất khẩu đầu tiên vào Nhật Bản minh chứng Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới đưa gạo phát thải thấp ra thị trường xuất khẩu và cũng là nước tiên phong nâng tầm hạt gạo, mở ra sức cạnh tranh về giá trị, chất lượng của hạt gạo được sinh ra trên vùng đất Chín Rồng. Ðây không chỉ là niềm vui của người nông dân, doanh nghiệp xuất khẩu gạo, mà còn là tiền đề trong khơi dậy phong trào thi đua sản xuất gạo phát thải thấp phù hợp với thu thế phát triển của thế giới ngay trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.

Theo ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ NN&MT: “Việc xuất khẩu lô hàng sang thị trường Nhật Bản đã cho thấy việc chuyển đổi tư duy sản xuất của người nông dân từ sản xuất nông nghiệp thuần tuý sang làm kinh tế nông nghiệp, đồng thời khẳng định vai trò và giá trị của ngành hàng lúa gạo tại vùng ÐBSCL. Việc thay đổi tư duy sản xuất này, đã khai thác tối đa lợi thế về đất đai gắn với gia tăng giá trị, chuyển đổi nông nghiệp theo hướng bền vững. Cùng với đó, sự đồng hành của các doanh nghiệp trong Ðề án 1 triệu héc-ta lúa, đã tạo ra vùng nguyên liệu đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường. Ðây là một định hướng mới ở ÐBSCL nói riêng và cả nước nói chung để tiếp tục chung sức, nhằm chuyển hướng cho ngành hàng lúa gạo, không chỉ đảm bảo chất lượng cho Việt Nam và cả thế giới, cũng như đảm bảo các cam kết của Việt Nam với thế giới rằng hạt gạo của Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn phát triển bền vững”.

Xây dựng nền sản xuất lúa chất lượng cao

Có thể nói, 2025 là năm quan trọng đánh dấu kết thúc của giai đoạn đầu Ðề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao phát thải thấp vùng ÐBSCL và để đạt mục tiêu 1 triệu héc-ta đến năm 2030, Bộ NN&MT đã yêu cầu các địa phương mở rộng mô hình, hướng tới mục tiêu xây dựng nền sản xuất lúa chất lượng cao, thân thiện với môi trường và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Bởi đề án này đã thí điểm thành công trong năm 2024 và nay đang bước vào giai đoạn mở rộng trong sản xuất. Những cánh đồng lúa chất lượng cao phát thải thấp sẽ ngày càng được nhân rộng, cùng với đó từ sự khởi đầu của nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sẽ tiến đến phát triển nhãn hiệu chứng nhận và thương hiệu quốc gia Gạo Việt Nam carbon thấp theo mục tiêu của Ðề án 1 triệu héc-ta. Ðồng thời, hướng tới mục tiêu vì sự phát triển bền vững, thịnh vượng của ngành lúa gạo, nâng cao vị thế, hình ảnh lúa gạo ở vùng ÐBSCL nói riêng và của Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới.

Song, muốn hoàn thành các mục tiêu chiến lược này, cũng cần những tư duy mới trong sản xuất lúa gạo gắn với không ngừng nâng cao chất lượng, giá trị và xây dựng niềm tin từ những liên kết bền chặt, có vậy mới khuyến khích nông dân, doanh nghiệp tích cực tham gia đề án. Bởi cùng với con tôm, cá tra, trái cây và các loại thuỷ hải sản khác, hạt gạo đã góp phần tạo sinh kế, thu nhập cho hàng triệu nông dân của vùng ÐBSCL. Như năm 2024, ngành gạo Việt Nam đã tạo dấu ấn đặc biệt với sản lượng xuất khẩu vượt 8 triệu tấn và cho doanh thu trên 4,5 tỷ USD, tiếp tục đưa Việt Nam giữ vững vị trí là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Ðây là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng và mở ra kỳ vọng cho một năm mới tiếp tục gặt hái nhiều thành công. Ðiều đó, càng khẳng định lúa gạo không chỉ là “trụ cột” của nền kinh tế nông nghiệp, mà còn là niềm tự hào của xuất khẩu Việt Nam.

Thế nhưng, để người nông dân thật sự làm giàu từ hạt gạo và khẳng định đúng giá trị của mặt hàng chiến lược này, gắn với phát triển nhanh cũng cần tập trung tháo gỡ các “điểm nghẽn” trong chuỗi giá trị sản xuất và phải xem “giống” là khâu đột phá. Theo Viện Lúa ÐBSCL: Ðể giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất và đa dạng hoá nguồn gạo xuất khẩu chất lượng, bán được giá cao gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh cho hạt gạo Việt Nam, công tác chọn tạo giống lúa phải thay đổi cho phù hợp hơn. Ðó là tiếp tục nghiên cứu cải tiến khả năng chống chịu sâu bệnh và hạn mặn của các giống lúa phổ biến trong sản xuất. Ðồng thời, phải tập trung nâng cao chất lượng gạo tốt hơn, do trong quá trình sản xuất một số giống đã bắt đầu bị suy thoái làm giảm khả năng chống chịu sâu bệnh nên cần tiếp tục lai tạo bổ sung thêm gien kháng sâu bệnh, gia tăng khả năng chống chịu hạn mặn, nhưng vẫn phải duy trì được các đặc tính về phẩm chất gạo.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu lai tạo giống lúa mới có tiềm năng cho năng suất cao, chống chịu điều kiện bất lợi của môi trường và đa dạng về chất lượng. Vì Việt Nam hiện nay tuy chiếm ưu thế trong phân khúc gạo trắng hạt dài, nhưng ở phân khúc gạo thơm cấp cao và các phân khúc gạo cao sản chế biến, dinh dưỡng... vẫn còn nhiều hạn chế. Lẽ đó, việc tham gia của các cá nhân, doanh nghiệp cùng các đơn vị nghiên cứu công lập sẽ giúp đa dạng cơ cấu giống về chất lượng gạo. Ðiều này sẽ giúp các doanh nghiệp có nhiều cơ hội hơn trong việc khai thác thị trường ngách nội địa và quốc tế có giá trị kinh tế cao. Cùng với đa dạng về chủng loại giống lúa, tập trung nâng cao chất lượng, cũng cần tính đến xây dựng vùng lúa nguyên liệu ổn định về sản lượng, giữ cho được phẩm chất gạo vốn là vấn đề cơ bản trong khẳng định thương hiệu và giá trị lâu dài./.

Lư Dũng

Thu hút vốn FDI cho các tỉnh ÐBSCL sau hợp nhất: Nhu cầu bức thiết cho tăng trưởng nhanh

Thực tiễn đã chứng minh, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, nhất là trong điều kiện các tỉnh ở khu vực đồng bằng sông Cửu long (ÐBSCL) vừa hợp nhất. Thế nhưng, cũng cần nhìn nhận, đánh giá lại công tác thu hút vốn FDI, khi đồng vốn này tham gia vào phát triển các thế mạnh về kinh tế của vùng ÐBSCL còn khá khiêm tốn và chưa tạo được “sức bật” lớn trong khai thác các tiềm năng, lợi thế vốn có.

Các tỉnh ĐBSCL sau hợp nhất: Cần tái cấu trúc sản phẩm du lịch 

Với điều kiện sinh thái đặc thù, cùng hệ thống sông ngòi chằng chịt, vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hội tụ tiềm năng, thế mạnh du lịch sông nước (DLSN). Thế mạnh này sẽ tiếp tục được phát huy mạnh mẽ hơn khi các tỉnh hợp nhất trong điều kiện tương đồng về lợi thế. Song, cũng cần nhìn nhận, đánh giá lại mô hình tăng trưởng gắn với tái cấu trúc các sản phẩm du lịch để tạo ra “cú huých” bằng chính bản sắc đặc trưng.

Chọn thuỷ sản làm khâu đột phá

Thế mạnh kinh tế hàng đầu của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) lâu nay và dự báo trong tương lai gần vẫn phải dựa vào trụ cột nông nghiệp. Nhưng đó phải là nông nghiệp xanh, sạch, sản xuất hàng hoá lớn, có sức cạnh tranh cao và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu (BÐKH).

“Chắp cánh” hạt gạo đất Chín Rồng

Vừa qua, Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) phối hợp với Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, TP Cần Thơ tổ chức lễ xuất khẩu lô hàng “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sang thị trường Nhật Bản với số lượng 500 tấn. Cái đáng phấn khởi ở đây không phải là số lượng, mà việc xuất khẩu lô hàng đầu tiên này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của ngành nông nghiệp và được xem là bước tiến ấn tượng trong sản xuất lúa gạo từ Ðề án 1 triệu héc-ta lúa đang triển khai ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL).

Nghị quyết 68 tạo “đường băng” để doanh nghiệp bứt phá

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN), làm nức lòng cộng đồng doanh nghiệp (DN) cả nước nói chung và DN khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) nói riêng. Tuy mới ban hành nhưng Nghị quyết 68 được cộng đồng DN phấn khởi đón nhận, xem là “đường băng” để chủ động bứt phá và tăng tốc, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.

Nâng cao Chỉ số PCI - “Chìa khoá” cho tăng trưởng kinh tế

Vừa qua, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức công bố Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2024 và đánh dấu 20 năm hành trình liên tục cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Ðồng thời, từ số liệu công bố này cũng đặt ra nhiều vấn đề về môi trường đầu tư, kinh doanh ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL).

Bên dòng Maspero

Khi mùa lễ hội Ok Om Bok tưng bừng, dòng sông Maspero cũng khoác lên mình tấm áo rực rỡ, hội tụ cả tinh thần lẫn văn hoá của cộng đồng các dân tộc anh em Kinh - Khmer - Hoa. Không chỉ là nơi diễn ra những cuộc đua ghe Ngo đầy hào hứng, dòng sông này còn là nhịp cầu nối giữa truyền thống, hiện tại và tương lai của vùng đất Sóc Trăng giàu bản sắc văn hoá các dân tộc.

Sức vươn Cù lao Tây

Giữa dòng Tiền Giang hiền hoà, nơi sóng nước mênh mang và đất phù sa màu mỡ, có một vùng đất đang lặng lẽ thay da đổi thịt: Cù lao Tây, thuộc huyện Thanh Bình, tỉnh Ðồng Tháp. Mảnh đất này từng một thời lận đận bởi giao thông trắc trở, kinh tế khó khăn, nhưng hôm nay, nhờ những chủ trương đúng đắn, sự đồng lòng của chính quyền và người dân, Cù lao Tây đã bừng sáng như một đoá sen vươn mình từ bùn lầy, thanh khiết, đầy sức sống.

Vì sự phát triển bền vững của đất Chín Rồng

Trong Báo cáo Kinh tế thường niên vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) vừa được Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố, đã phản ánh thực trạng về một bức tranh “khá xám” của đồng bằng với hàng loạt các thách thức và đặt ta nhiều vấn đề cho phát triển bền vững. Tại sao sự phát triển kinh tế của ÐBSCL tiếp tục “tụt lùi” trong nhiều năm liền và vùng đất chín rồng này rất cần một cuộc cách mạng trong tái cơ cấu lại mô hình tăng trưởng trong huy động nguồn lực, nhất là trong điều kiện các tỉnh, thành phố sẽ được sáp nhập lại với nhau.

Những vùng quê vượt qua nỗi đau

Sau 50 năm kiến thiết xây dựng quê hương, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn đó những chiến tích bi thương, oai hùng. Trở lại những địa chỉ năm xưa từng xảy ra các vụ thảm sát tang thương như: TP Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang; xã Trí Phải (huyện Thới Bình), xã Nguyễn Huân (huyện Ðầm Dơi), tỉnh Cà Mau... đều cảm nhận được sự thay đổi lớn lao. Ðó là những vùng quê bừng sáng, đi đầu trong các phong trào ở địa phương.