(CMO) Với đặc điểm tự nhiên của tỉnh cùng với tác động của biến đổi khí hậu, nhiệm vụ đặt ra cho hệ thống thuỷ lợi trên địa bàn tỉnh vô cùng nặng nề. Đối với vùng sinh thái ngọt, ngoài việc ngăn mặn giữ ngọt phục vụ sản xuất còn có thể bơm tiêu hỗ trợ khi cần thiết cho vùng trũng thấp. Đối vời vùng sinh thái mặn, ngọt đan xen, chủ yếu là Nam Cà Mau và vùng Quản lộ Phụng Hiệp, việc khống chế lan truyền nước thải, dịch bệnh, chủ động lấy và thoát nước theo ý muốn là nhiệm vụ chính.
Biết là vậy nhưng nhiều dự án đã triển khai thực hiện nhiều năm, song những mục tiêu chủ yếu chưa đạt được, tổ chức triển khai công trình còn dàn đều, thiếu tập trung dứt điểm, kéo dài thời gian gây lãng phí vốn, hạn chế hiệu quả, cần có sự đánh giá lại một cách cụ thể, chi tiết.
Tập trung chống tràn và hoàn thiện đê biển
Để hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất trong điều kiện mặn ngọt đang xen như Cà Mau là bài toán khó. Nhận định này được Phó giám đốc Sở NN&PTNT Tô Quốc Nam đồng thuận. Ông Nam cho biết: “Để hoàn thành hệ thống thuỷ lợi như dự kiến cần đến nhiều ngàn tỷ đồng. Đây là nút thắt lớn nhất hiện nay, cần có thời gian để tháo gỡ.
Theo đó, phương án đầu tư thuỷ lợi trong thời gian tới, ông Nam khẳng định, vẫn tập trung ưu tiên cho các công trình thích ứng với biết đổi khí hậu. Và cụ thể, ông Nam cho biết, giai đoạn 2021-2025 chủ yếu là khép kín đê biển Tây. Bởi hiện nay tuyến đê này vẫn còn một đoạn 23 km từ Sông Đốc đến Cái Đôi Vàm và từ Cái Đôi Vàm đến Kênh Năm, xã Rạch Chèo, huyện Phú Tân.
“Với nguồn vốn hiện nay, việc khép kín tuyến biển Tây tương đối ổn, điều đáng lo nhất là còn lại nguyên tuyến biển Đông gần như chưa có gì”, ông Nam chia sẻ. Hiện nay, tuyến biển Đông mỗi năm mất rừng rất lớn, với gần 50 km sạt lở nghiêm trọng, trong đó có khoảng 23 km mỗi năm, mất khoảng 50 m từ biển vào đất liền. Trước thực trạng đó, ông Nam cho biết tỉnh đang kiến nghị Chính phủ đầu tư cũng như tỉnh đã và đang tranh thủ nhiều nguồn tập trung chống sạt lở biển Đông.
Riêng đối với tình trạng đê bao chống tràn, theo ông Nam đây đang là nhu cầu bức xúc hiện nay. Hàng năm tỉnh được Trung ương cấp khoảng 185 tỷ đồng kinh phí hỗ trợ sản phẩm dịch vụ công ích thuỷ lợi. Từ nguồn này, nếu phục vụ nạo vét thuỷ lợi thì đủ, nhưng nếu kết hợp làm bờ bao chống tràn thì chưa thấm thía vào đâu.
Tập trung mọi nguồn lực ứng cứu đê biển Tây bị sạt lở đầu tháng 8 vừa qua. |
Riêng việc đầu tư thuỷ lợi vùng Nam Cà Mau hiện vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng không nên khép kín. Tuy nhiên, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, nếu trừ các kênh nội đồng thì tổng chiều dài vẫn lên đến 8 ngàn ki-lô-mét. Do đó, nếu thả lỏng (không khép kín tiểu vùng) phải đầu tư hệ thống đê chống tràn, “Mà đầu tư hệ thống đê càng tốn kém chi phí nhiều hơn”, ông Nam khẳng định.
Theo mức đầu tư để khép kín tiểu vùng, sức đầu tư thấp nhất khoảng 700-800 tỷ đồng. Tuy nhiên, để hạn chế mức đầu tư hiện nay, vùng Năm Căn - Ngọc Hiển được xác định là không tiến hành khép mà khi hệ thống đê biển hoàn thiện sẽ tiến hành làm các cống bao ngoài để ngăn triều cường.
Như vậy, giải pháp thuỷ lợi lâu dài vẫn là khép kín tiểu vùng, ô thuỷ lợi theo thực tế sản xuất của từng khu vực. Theo đó, giải pháp bao ô thuỷ lợi là hướng đang được ưu tiên lựa chọn.
Bao ô mâu thuẫn mặn - ngọt
Trên cơ sở của Quy hoạch thuỷ lợi ĐBSCL giai đoạn 2012-2020 và định hướng đến năm 2050 trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng; Dựa vào định hướng sản xuất, hiện trạng công trình, điều kiện tự nhiên... Cà Mau đã đề xuất phương án giải pháp bố trí hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất của tỉnh. Theo đó, quan điểm trong phương án này là hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ đa mục tiêu phát triển kinh tế của các tỉnh ven biển. Đồng thời, có tác dụng phân định rõ ràng các vùng sinh thái mặn ra mặn, ngọt ra ngọt, tạo điều kiện cho các ngành sản xuất ổn định và phát triển bền vững.
Để thấy được hiệu quả của việc khép kín tiểu vùng, ô thuỷ lợi, Giám đốc Trung tâm Quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi (Sở NN&PTNT) Trần Quốc Nam dẫn chứng, kể từ khi Tiểu vùng 10 - Nam Cà Mau được khép kín, tình trạng tràn do triều cường gần như đã được khắc phục. Kể cả 2 tiểu vùng hở (17 và 18) - Nam Cà Mau khi vận hành hệ thống cống dọc kênh Gành Hào, tình trạng ngập úng không còn, khi đóng cống nước chênh lệch giữa trong và ngoài trên 1 m.
Một trong những hiệu quả dễ thấy được là chống tràn khi có triều cường, nước biển dâng. Đứng trước tình hình biến đổi khí hậu, nước biển dâng cần phải xây dựng hệ thống đê bao để ứng phó, nếu không xây dựng hệ thống đê bao thì đất sản xuất sẽ bị ngập tràn, hệ sinh thái rừng ngập mặn sẽ bị huỷ hoại. Khi nước ngập liên tục, sụt lún nền đất sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nên việc xây dựng bờ bao càng cấp thiết hơn bao giờ hết.
Không chỉ vậy, việc bao ô sẽ hạn chế lây lan dịch bệnh, khoanh vùng xử lý rồi mới tiêu thoát, không cho nước nhiễm bệnh các vùng khác vào tiểu vùng đang canh tác, cũng như các nguồn nước thải không lan truyền ra các vùng sản xuất lân cận. Điều này được chứng minh trong đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu các giải pháp thuỷ lợi nhằm phục vụ khai thác bền vững vùng bán đảo Cà Mau” của PGS -TS Tăng Đức Thắng.
Ngoài ra, theo ông Trần Quốc Nam, việc bao ô sẽ hạn chế sự bồi lắng hệ thống kênh mương, khi có hệ thống cống, bằng công tác vận hành cho phép chỉ lấy nước mặn khi nguồn nước tốt, ít phù sa. Đồng thời, trữ lại lượng nước mưa trong tiểu vùng bằng hệ thống kênh rạch trong tiểu vùng phòng chống cháy rừng, phục vụ trồng lúa với tiểu vùng bố trí lúa và tôm - lúa hoặc pha loãng độ mặn khi cần thiết cho nuôi tôm.
Theo báo cáo phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Cà Mau, hội đồng đã kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo ngành chức năng điều tra, xem xét, đi sát thực tế; Xác định rõ yêu cầu, loại hình sản xuất cụ thể của từng vùng, qua đó điều chỉnh quy hoạch sản xuất, quy hoạch xây dựng hệ thống thuỷ lợi cho phù hợp với từng loại hình sản xuất: Chuyên tôm, tôm - lúa hoặc chuyên lúa./.
Trung Đỉnh - Nguyễn Phú