ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 21-9-24 13:51:05
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Rừng đước Viên An

Báo Cà Mau Theo miêu tả của ông Tám Đoàn (Tô Văn Đoàn, cán bộ lão thành của vùng Viên An), xã Viên An cũ ở thời Mỹ - Diệm có 11 ấp, dân cư thưa thớt kéo dài từ Vàm Ông Định đến Đất Mũi ngày nay, gồm cả Viên An Đông và Lâm Hải (huyện Năm Căn). Trong đó, bà con ở thành xóm đông đúc nhất là ở Nhưng Miên, Tắc Biển, Xóm Mới…, còn lại là rừng, là vương quốc của cây đước.

Theo miêu tả của ông Tám Đoàn (Tô Văn Đoàn, cán bộ lão thành của vùng Viên An), xã Viên An cũ ở thời Mỹ - Diệm có 11 ấp, dân cư thưa thớt kéo dài từ Vàm Ông Định đến Đất Mũi ngày nay, gồm cả Viên An Đông và Lâm Hải (huyện Năm Căn). Trong đó, bà con ở thành xóm đông đúc nhất là ở Nhưng Miên, Tắc Biển, Xóm Mới…, còn lại là rừng, là vương quốc của cây đước.

Mối lương duyên giữa con người và cây đước nơi đây hình thành từ thời khẩn hoang, mở đất. Suốt hành trình, cây đước là hình tượng đại diện duy nhất, độc nhất và tiêu biểu nhất cho từng biến thiên thời cuộc diễn ra tại vùng đất biển Viên An. Vật lộn mưu sinh, bom đạn giặc thù, con người nơi đây nương tựa vào rừng đước, và từ màu xanh đại ngàn vang lên lời thề, “chết ôm gốc đước chớ không phản bội cách mạng”.

Nhân chứng lịch sử

Sinh ra tại đất Viên An, qua 80 năm đời người, ông Tám Ðoàn thổ lộ: “Những người kháng chiến như chúng tôi chỉ hiểu biết từng thời đoạn, từng hoàn cảnh, chớ biết làm sao hết sự kiên trung, anh dũng và vất vả, hy sinh của Nhân dân trong thời kháng Mỹ”. Trong ký ức, ông Tám như chưa quên được nỗi đau khi chứng kiến cảnh “tế cờ” thời Diệm: “Những cán bộ của ta có tư tưởng chống đối, tụi nó trói lại mít-tinh, bắt mỗi người dùng cây đước làm hàng rào đánh một cái, tới chết thì thôi”. Không khí chiến tranh ngày càng ác liệt, tụi giặc bắt đầu gom dân lập ấp chiến lược, hòng tách cách mạng ra khỏi dân, “tát nước, bắt cá”".

Sản vật dưới tán rừng đước vẫn được người Viên An bảo tồn, phát huy giá trị.       Ảnh: QUỐC RIN

Trong bối cảnh ấy, gần như toàn bộ người dân Viên An rút vào rừng đước để lập nên mô hình làng rừng kháng chiến độc nhất vô nhị. Làng rừng có chi bộ Ðảng, có trường học, nhà giam, các hoạt động sản xuất, sinh hoạt diễn ra bình thường.

Ông Ba Chanh (Nguyễn Ngọc Chanh, nguyên Ðảng uỷ viên xã Viên An), kể chuyện cây cầu đước bắc qua sông Ông Trang khiến chúng tôi "mắt tròn, mắt dẹt". Năm 1962, Viên An phát động làm cầu, sông Ông Trang gần cửa biển nước chảy xiết, bề rộng hơn 5 miệng đáy. Nhà nhà đốn đước, đẽo gọt, thui, khoan, bắc giàn rồi lót ván, trên làm lan can tay vịn.

Ông Ba nói: “Dân ở đây là vậy, hễ hợp tình, hợp lý, có chủ trương của cách mạng thì hô một tiếng tất cả đều đồng lòng”. Tiếc rằng cây cầu “huyền thoại ấy” chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, giặc mở chiến dịch “Sóng tình thương” năm 1963, cây cầu bị phá huỷ.

Ông Tám Ðoàn nhớ về cuộc sống của bà con Viên An thời điểm khốn khó nhất của cuộc chiến mà không khỏi bùi ngùi: “Giặc cho hải thuyền, tàu ụ nổi cắt luôn tuyến huyết mạch trên sông Tam Giang - Bảy Háp - Cửa Lớn, coi như lương thực, nước uống không cách nào vận chuyển được”. Vậy rồi dân Viên An xẻ rừng đước “mở đường máu” để gom củi đước, cua, ốc len… lên Nhà Di, Cả Chim, lên tận Hộ Phòng để đổi gạo, chuối, dừa khô... về để dùng.

Ông Bảy Quốc (Tạ Nhuỵ Quốc, hiện là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Viên An) tiếp lời: “Lúc ngặt quá, tụi này trồng rẫy, ăn bí, ăn bắp cầm cự qua ngày”. Nước uống thì phải “hấp” bằng thùng thiếc. Giai đoạn 1970-1972 ác liệt quá thì “hết cách”, đành phải ăn trái mắm lót lòng.

Bọn giặc sợ rừng đước, tuyên bố thấy bóng người lãng vãng trong rừng là bắn bỏ. Ông Tám Ðoàn cười: “Ai bước vô rừng đước cũng là cán bộ cách mạng hết mà, nó sợ cũng phải”. Bà con Viên An lúc ấy căm tức bọn giặc, bỏ hết cơ ngơi để vô rừng mò cua, bắt ốc cầm cự qua ngày.

Ông Ba Chanh nhớ: “Chạy giặc mà, nhà lợp cao su, kiếm đước xung quanh là đủ cột, trên lót thêm bao Mỹ vì sợ trái đước rớt xuống lủng. Có khi một ngày làm 2 cái nhà vì trúng tầm đạn giặc”. Suốt chặng đường kháng Mỹ, người Viên An không đầu hàng giặc, không phản bội cách mạng, sống trong rừng đước, sống nhờ rừng đước như vậy.

Rừng đước kháng chiến

Thời Tây, Viên An được chia ra làm 20 khu, mỗi năm khai thác đước 1 khu, sau đó lần lượt đến chỗ khác. Tây đánh dấu cây làm giống, đào kinh ranh. Trông coi khai thác củi, mở cúp có nhiều cặp rằng và quan Kiểm lâm. Việc quản lý hầm than thì có tằng khạo, đây là chuyên gia về xếp củi, đốt lửa, coi khói… như lời ông Tám Ðoàn, bà con mình có làm cũng không ăn thua do không biết bí quyết. Ông Tám cho biết, thời đó mỗi lò ra vài ngàn ký than, củi đòn sao than ra nguyên thỏi vậy, chất lượng vô cùng tốt.

Về sau, bà Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Ðình Nhu, độc chiếm việc hầm than, buôn bán than. Ông Tám Ðoàn lắc đầu: “Tụi này phá hoại, không làm như Tây, vả lại cách mạng mình đánh phá liên tục nên làm ăn dần lụn bại”. Rồi nghề hầm than lác đác xuất hiện đây đó, giờ thì mất dấu hẳn trên đất Viên An. Nhưng hầu như trong tất cả các sách địa chí trước đây, than đước được coi là mặt hàng thượng hạng của Cà Mau.

Ðước Viên An cũng chịu kiếp nạn chiến tranh, khi nghe kể lại ai cũng xót xa. Mỹ dùng chất độc hoá học rải xuống các cánh rừng, ông Ba Chanh thuật lại: “Nó rải từng sọc, ý đồ gom cán bộ, bộ đội lại những chỗ còn rừng hòng diệt gọn”.

Ông Tám Ðoàn kể chi tiết hơn: “Hai vợ chồng tui cùng 2 đứa con trong rừng, nó rải xuống ướt mình, nước uống nổi màng màng”. Cây sau đó chỉ một ngày lá bắt đầu héo và cuốn lại, sau đó chết đứng từ từ. Ngày giải phóng, rừng Viên An, xóm làng Viên An trơ trụi. Mãi đến khoảng những năm 80 thì rừng mới bắt đầu tái sinh, nhưng không bao giờ được như xưa.

Riêng ông Bảy Quốc có những kỷ niệm rất vui với trái đước: “Tui thấy anh em lượm trái đước, cắt đầu, cặp vô ruột xe giả làm băng đạn, đeo lòng thòng vậy đó, nhìn oai lắm, rồi cũng làm theo”.

Thời thanh niên, những anh em cùng lứa với ông Bảy mê súng đạn một cách lạ kỳ. “Mấy chục anh em “thèm súng” quá nên xung phong tìm các đơn vị chủ lực để thoả chí. Ai ngờ, mấy anh bên Ðoàn 962 bơi xuồng “lú lú” ra cây B41 bắp chuối, vậy là tụi này ngoắc lại, mấy ổng rước đi hết”, ông Bảy nhớ lại.

Ông Ba Chanh thì không quên cảnh thụt khí đá, cầm đước vây đồn Nhưng Miên. Nhiều đồng chí lấy “đước lụt” đẽo gọt làm bá súng lên nước bóng ngời…

Viên An giải phóng, người Viên An từ rừng đước tràn ra để bảo vệ, dựng xây cuộc sống mới. Chợ Ông Trang ngày nào chỉ 5, 6 nóc gia giờ đã sầm uất, bề thế. Có điều, rừng đước Viên An giờ ít hơn, thưa hơn ngày trước.

Ngồi trên nhà sàn làm từ gỗ "đước lụt", ông Bảy Quốc ngẫm nghĩ: “Rừng đước giờ nhường chỗ cho con người nên ít đi cũng phải. Nhưng chú bảo đảm với mấy con rằng, ở Viên An này, cây đước sẽ không bao giờ mất đi. Nó giống như bao lớp người ở đây, không bao giờ phản bội cách mạng...”

Ký của Phạm Nguyên

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.