ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 16:01:43
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Rừng đước Viên An

Báo Cà Mau Theo miêu tả của ông Tám Đoàn (Tô Văn Đoàn, cán bộ lão thành của vùng Viên An), xã Viên An cũ ở thời Mỹ - Diệm có 11 ấp, dân cư thưa thớt kéo dài từ Vàm Ông Định đến Đất Mũi ngày nay, gồm cả Viên An Đông và Lâm Hải (huyện Năm Căn). Trong đó, bà con ở thành xóm đông đúc nhất là ở Nhưng Miên, Tắc Biển, Xóm Mới…, còn lại là rừng, là vương quốc của cây đước.

Theo miêu tả của ông Tám Đoàn (Tô Văn Đoàn, cán bộ lão thành của vùng Viên An), xã Viên An cũ ở thời Mỹ - Diệm có 11 ấp, dân cư thưa thớt kéo dài từ Vàm Ông Định đến Đất Mũi ngày nay, gồm cả Viên An Đông và Lâm Hải (huyện Năm Căn). Trong đó, bà con ở thành xóm đông đúc nhất là ở Nhưng Miên, Tắc Biển, Xóm Mới…, còn lại là rừng, là vương quốc của cây đước.

Mối lương duyên giữa con người và cây đước nơi đây hình thành từ thời khẩn hoang, mở đất. Suốt hành trình, cây đước là hình tượng đại diện duy nhất, độc nhất và tiêu biểu nhất cho từng biến thiên thời cuộc diễn ra tại vùng đất biển Viên An. Vật lộn mưu sinh, bom đạn giặc thù, con người nơi đây nương tựa vào rừng đước, và từ màu xanh đại ngàn vang lên lời thề, “chết ôm gốc đước chớ không phản bội cách mạng”.

Nhân chứng lịch sử

Sinh ra tại đất Viên An, qua 80 năm đời người, ông Tám Ðoàn thổ lộ: “Những người kháng chiến như chúng tôi chỉ hiểu biết từng thời đoạn, từng hoàn cảnh, chớ biết làm sao hết sự kiên trung, anh dũng và vất vả, hy sinh của Nhân dân trong thời kháng Mỹ”. Trong ký ức, ông Tám như chưa quên được nỗi đau khi chứng kiến cảnh “tế cờ” thời Diệm: “Những cán bộ của ta có tư tưởng chống đối, tụi nó trói lại mít-tinh, bắt mỗi người dùng cây đước làm hàng rào đánh một cái, tới chết thì thôi”. Không khí chiến tranh ngày càng ác liệt, tụi giặc bắt đầu gom dân lập ấp chiến lược, hòng tách cách mạng ra khỏi dân, “tát nước, bắt cá”".

Sản vật dưới tán rừng đước vẫn được người Viên An bảo tồn, phát huy giá trị.       Ảnh: QUỐC RIN

Trong bối cảnh ấy, gần như toàn bộ người dân Viên An rút vào rừng đước để lập nên mô hình làng rừng kháng chiến độc nhất vô nhị. Làng rừng có chi bộ Ðảng, có trường học, nhà giam, các hoạt động sản xuất, sinh hoạt diễn ra bình thường.

Ông Ba Chanh (Nguyễn Ngọc Chanh, nguyên Ðảng uỷ viên xã Viên An), kể chuyện cây cầu đước bắc qua sông Ông Trang khiến chúng tôi "mắt tròn, mắt dẹt". Năm 1962, Viên An phát động làm cầu, sông Ông Trang gần cửa biển nước chảy xiết, bề rộng hơn 5 miệng đáy. Nhà nhà đốn đước, đẽo gọt, thui, khoan, bắc giàn rồi lót ván, trên làm lan can tay vịn.

Ông Ba nói: “Dân ở đây là vậy, hễ hợp tình, hợp lý, có chủ trương của cách mạng thì hô một tiếng tất cả đều đồng lòng”. Tiếc rằng cây cầu “huyền thoại ấy” chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, giặc mở chiến dịch “Sóng tình thương” năm 1963, cây cầu bị phá huỷ.

Ông Tám Ðoàn nhớ về cuộc sống của bà con Viên An thời điểm khốn khó nhất của cuộc chiến mà không khỏi bùi ngùi: “Giặc cho hải thuyền, tàu ụ nổi cắt luôn tuyến huyết mạch trên sông Tam Giang - Bảy Háp - Cửa Lớn, coi như lương thực, nước uống không cách nào vận chuyển được”. Vậy rồi dân Viên An xẻ rừng đước “mở đường máu” để gom củi đước, cua, ốc len… lên Nhà Di, Cả Chim, lên tận Hộ Phòng để đổi gạo, chuối, dừa khô... về để dùng.

Ông Bảy Quốc (Tạ Nhuỵ Quốc, hiện là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Viên An) tiếp lời: “Lúc ngặt quá, tụi này trồng rẫy, ăn bí, ăn bắp cầm cự qua ngày”. Nước uống thì phải “hấp” bằng thùng thiếc. Giai đoạn 1970-1972 ác liệt quá thì “hết cách”, đành phải ăn trái mắm lót lòng.

Bọn giặc sợ rừng đước, tuyên bố thấy bóng người lãng vãng trong rừng là bắn bỏ. Ông Tám Ðoàn cười: “Ai bước vô rừng đước cũng là cán bộ cách mạng hết mà, nó sợ cũng phải”. Bà con Viên An lúc ấy căm tức bọn giặc, bỏ hết cơ ngơi để vô rừng mò cua, bắt ốc cầm cự qua ngày.

Ông Ba Chanh nhớ: “Chạy giặc mà, nhà lợp cao su, kiếm đước xung quanh là đủ cột, trên lót thêm bao Mỹ vì sợ trái đước rớt xuống lủng. Có khi một ngày làm 2 cái nhà vì trúng tầm đạn giặc”. Suốt chặng đường kháng Mỹ, người Viên An không đầu hàng giặc, không phản bội cách mạng, sống trong rừng đước, sống nhờ rừng đước như vậy.

Rừng đước kháng chiến

Thời Tây, Viên An được chia ra làm 20 khu, mỗi năm khai thác đước 1 khu, sau đó lần lượt đến chỗ khác. Tây đánh dấu cây làm giống, đào kinh ranh. Trông coi khai thác củi, mở cúp có nhiều cặp rằng và quan Kiểm lâm. Việc quản lý hầm than thì có tằng khạo, đây là chuyên gia về xếp củi, đốt lửa, coi khói… như lời ông Tám Ðoàn, bà con mình có làm cũng không ăn thua do không biết bí quyết. Ông Tám cho biết, thời đó mỗi lò ra vài ngàn ký than, củi đòn sao than ra nguyên thỏi vậy, chất lượng vô cùng tốt.

Về sau, bà Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Ðình Nhu, độc chiếm việc hầm than, buôn bán than. Ông Tám Ðoàn lắc đầu: “Tụi này phá hoại, không làm như Tây, vả lại cách mạng mình đánh phá liên tục nên làm ăn dần lụn bại”. Rồi nghề hầm than lác đác xuất hiện đây đó, giờ thì mất dấu hẳn trên đất Viên An. Nhưng hầu như trong tất cả các sách địa chí trước đây, than đước được coi là mặt hàng thượng hạng của Cà Mau.

Ðước Viên An cũng chịu kiếp nạn chiến tranh, khi nghe kể lại ai cũng xót xa. Mỹ dùng chất độc hoá học rải xuống các cánh rừng, ông Ba Chanh thuật lại: “Nó rải từng sọc, ý đồ gom cán bộ, bộ đội lại những chỗ còn rừng hòng diệt gọn”.

Ông Tám Ðoàn kể chi tiết hơn: “Hai vợ chồng tui cùng 2 đứa con trong rừng, nó rải xuống ướt mình, nước uống nổi màng màng”. Cây sau đó chỉ một ngày lá bắt đầu héo và cuốn lại, sau đó chết đứng từ từ. Ngày giải phóng, rừng Viên An, xóm làng Viên An trơ trụi. Mãi đến khoảng những năm 80 thì rừng mới bắt đầu tái sinh, nhưng không bao giờ được như xưa.

Riêng ông Bảy Quốc có những kỷ niệm rất vui với trái đước: “Tui thấy anh em lượm trái đước, cắt đầu, cặp vô ruột xe giả làm băng đạn, đeo lòng thòng vậy đó, nhìn oai lắm, rồi cũng làm theo”.

Thời thanh niên, những anh em cùng lứa với ông Bảy mê súng đạn một cách lạ kỳ. “Mấy chục anh em “thèm súng” quá nên xung phong tìm các đơn vị chủ lực để thoả chí. Ai ngờ, mấy anh bên Ðoàn 962 bơi xuồng “lú lú” ra cây B41 bắp chuối, vậy là tụi này ngoắc lại, mấy ổng rước đi hết”, ông Bảy nhớ lại.

Ông Ba Chanh thì không quên cảnh thụt khí đá, cầm đước vây đồn Nhưng Miên. Nhiều đồng chí lấy “đước lụt” đẽo gọt làm bá súng lên nước bóng ngời…

Viên An giải phóng, người Viên An từ rừng đước tràn ra để bảo vệ, dựng xây cuộc sống mới. Chợ Ông Trang ngày nào chỉ 5, 6 nóc gia giờ đã sầm uất, bề thế. Có điều, rừng đước Viên An giờ ít hơn, thưa hơn ngày trước.

Ngồi trên nhà sàn làm từ gỗ "đước lụt", ông Bảy Quốc ngẫm nghĩ: “Rừng đước giờ nhường chỗ cho con người nên ít đi cũng phải. Nhưng chú bảo đảm với mấy con rằng, ở Viên An này, cây đước sẽ không bao giờ mất đi. Nó giống như bao lớp người ở đây, không bao giờ phản bội cách mạng...”

Ký của Phạm Nguyên

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.