Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh vừa tổ chức hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Qua 3 năm triển khai thực hiện, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã không ngừng đầu tư vốn cho chương trình tam nông, góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn.
Nông dân vay vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT huyện Hồng Dân. Ảnh: Lâm Hỷ Đề nghị xóa nợ và tăng mức đầu tư cho nông dân Tại hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn, một vấn đề đặt ra là có nên giữ sổ đỏ của nông dân khi vay vốn hay không? Bên cạnh đó, có đại biểu kiến nghị xóa nợ cho nông dân để giúp họ giảm bớt gánh nặng nợ nần và an tâm phát triển sản xuất. Nên xóa nợ cho nông dân Đối với Bạc Liêu, định hướng phát triển kinh tế từ nay đến năm 2020 vẫn là sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, cần có chính sách ưu tiên cho phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn để góp phần làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động. Nếu không, nông nghiệp Bạc Liêu sẽ khó phát triển. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh kiến nghị Chính phủ thực hiện xóa nợ cho nông dân từ năm 2002 đến nay, nhằm giúp nông dân an tâm phát triển sản xuất. Đồng thời tăng mức đầu tư những mô hình sản xuất như nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi hợp lý… Ông Vũ Đức Khoan, Giám đốc Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh tỉnh Bạc Liêu: Giữ sổ đỏ để nông dân có nghĩa vụ trả nợ Việc ngân hàng giữ sổ đỏ khi nông dân vay vốn nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của nông dân trong việc thanh toán nợ với ngân hàng. Đồng thời, tránh trường hợp nông dân sử dụng một sổ đỏ để đi vay vốn ở nhiều ngân hàng, hoặc sang nhượng, cầm cố trái pháp luật. Đối với Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh tỉnh, thời gian qua, nếu là mô hình sản xuất hiệu quả thì ngân hàng vẫn mạnh dạn đầu tư vốn mà không cần tài sản thế chấp. T.A (thực hiện)
Ưu tiên vốn cho sản xuất
Ông Lương Ngọc Lân, Giám đốc Sở NN&PTNT:
Sau 3 năm thực hiện Nghị định số 41 của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh đã tích cực chỉ đạo các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng ưu tiên vốn phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Điều đó được minh chứng bằng dư nợ cho vay năm sau luôn cao hơn năm trước.
Nếu năm 2010, tổng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn đạt 8.360 tỷ đồng, thì năm 2011 đạt hơn 9.950 tỷ đồng, năm 2012 trên 10.860 tỷ đồng, và tính đến tháng 8/2013 đạt hơn 12.000 tỷ đồng, tăng trên 15% so với cùng kỳ năm 2012. Những con số trên cho thấy, trong điều kiện nguồn vốn có hạn, các ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn trong huy động vốn và đầu tư vốn cho những công trình, dự án động lực, nhưng vẫn ưu tiên vốn cho chương trình tam nông là sự nỗ lực rất lớn. Đặc biệt, Ngân hàng NN&PTNT tỉnh là ngân hàng có dư nợ vay cao nhất trong thực hiện Nghị định 41 với 90% vốn phục vụ chương trình tam nông và doanh số cho vay đạt hơn 13.000 tỷ đồng. Riêng Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Ngân hàng NN&PTNT tỉnh đã đầu tư gần 1.000 tỷ đồng cho hơn 1.000 lượt khách hàng.
Vẫn còn nhiều bất cập
Nghị định 41 tuy khơi thông nguồn tín dụng cho nông nghiệp - nông dân - nông thôn, song, phần lớn đối tượng được thụ hưởng được chính sách này là người trồng lúa, còn các đối tượng khác như ngư dân, diêm dân và các hộ nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc thì khó tiếp cận. Nguyên nhân là do các mô hình sản xuất này dễ gặp rủi ro, đòi hỏi vốn đầu tư nhiều và phần lớn không chủ động được thị trường, nên các ngân hàng ngại đầu tư, vì sợ khó thu hồi vốn.
Mặt khác, Nghị định 41 chỉ cho vay đối tượng là nông dân ở khu vực nông thôn, còn nông dân ở các thành phố, thị trấn thì không! Trong khi đó, nông dân ở các thị trấn vẫn chiếm phần lớn là sản xuất nông nghiệp như: thị trấn Châu Hưng (huyện Vĩnh Lợi), thị trấn Hòa Bình (huyện Hòa Bình), thị trấn Ngan Dừa (huyện Hồng Dân)… Ngay cả các phường của TP. Bạc Liêu (vẫn còn là phường nông nghiệp) như phường 2, phường 7, phường 8… cũng không tiếp cận được nguồn vốn vay này. Ông Thái Văn Dựng, Chủ tịch HĐQT Quỹ tín dụng nhân dân Châu Hưng, cho biết: “Với 90% vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, Quỹ tín dụng Châu Hưng cho vay chủ yếu là đối tượng nông dân. Nhưng phần lớn nông dân của thị trấn lại không tiếp cận được vốn vay từ Nghị định 41 vì vướng cơ chế”.
Riêng các tổ hợp tác, hợp tác xã, trang trại, theo Nghị định 41 có thể vay đến 500 triệu đồng mà không cần tài sản thế chấp, nhưng lại là đối tượng gần như không tiếp cận được vốn vay từ các ngân hàng. Bà Quách Thị Thêu, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh, nêu ý kiến: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh nên kiến nghị Chính phủ mở rộng đối tượng cho vay là hộ nông dân ở các phường, thị trấn và tạo điều kiện cho các hợp tác xã, tổ hợp tác được vay vốn phát triển sản xuất. Đồng thời, không nên giữ sổ đỏ của nông dân khi họ vay vốn ngân hàng”.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, Nghị định 41 cũng còn bộc lộ những bất cập khác như: vẫn còn tình trạng nông dân trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn đầu tư của Nhà nước; ý thức trả nợ kém; không ít người xem vốn đầu tư là hỗ trợ, cho không nên cố tình chây ì; một số tổ chức tín dụng chưa chủ động phối hợp, tuyên truyền để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động…
Kiến nghị điều chỉnh những quy định chưa hợp lý
Dù vẫn còn một số vướng mắc, song qua 3 năm thực hiện, Nghị định 41 đã cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ phát triển sản xuất và mở ra nhiều cơ hội mới cho nông nghiệp - nông thôn phát triển. Đồng thời, góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất, giúp nông dân có điều kiện ứng dụng những mô hình sản xuất mới, tăng thu nhập, giải quyết việc làm và giảm nghèo có hiệu quả.
Thời gian tới, cùng với việc chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục ưu tiên, đẩy mạnh đầu tư vốn cho nông nghiệp - nông dân - nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh sẽ kiến nghị với Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi những quy định chưa hợp lý và có chính sách đặc thù cho chương trình tam nông. Song song đó, thực hiện cơ chế bảo hiểm trong nông nghiệp để hạn chế rủi ro và tạo điều kiện cho nông dân an tâm phát triển sản xuất.
KIM TRUNG