ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 8-6-25 10:45:34
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung - người đam mê nghệ thuật cải lương nam bộ

Báo Cà Mau Từ năm 1961-1975, Tiểu ban Văn nghệ của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam có đến 23 cán bộ, soạn giả là văn nghệ sĩ hy sinh trên chiến trường miền Ðông Nam Bộ như Trần Hữu Trang, Nguyễn Ngọc Cung, Thanh Nha…

Khi UNESCO công nhận đờn ca tài tử là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại, những ai am hiểu loại hình độc đáo này càng yêu quý Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung, người con của vùng đất cuối trời Tổ quốc, người có công lớn đối với nền nghệ thuật cải lương và đờn ca tài tử Nam Bộ.

Trọn đời vì cải lương

Ngày 8/2/1927, Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung ra đời trong căn nhà số 21, đường Trưng Trắc, Phường 2, TP Cà Mau. Từ khi còn đi học, ông đã say mê đờn ca tài tử. Theo Vũ Cao, vào một buổi chiều, Nguyễn Ngọc Cung cùng người bạn đi dạo trên đường La Grandière, Sài Gòn (nay là đường Lý Tự Trọng, TP Hồ Chí Minh). Ðang đi, Cung bỗng nhìn thấy đám đông đứng quanh một ông lão và một cháu gái mà Cung đoán là hai cha con. Người cha bị mù, ngồi trên manh chiếu rách, vừa đờn vừa ca một đoạn vọng cổ với cây độc huyền cầm. Cháu gái chừng 10 tuổi, tay đưa chiếc nón vải rách ra phía trước xin tiền. Cung lách đám đông chen vào. Ðến khi ông lão mù vừa ca xong bài vọng cổ, Cung ngồi xuống nói với ông lão: “Ông đờn để tôi ca tiếp cho, tôi cũng ca vọng cổ”.

Vở cải lương “Khúc oan vô lượng” năm 1931.                              Ảnh tư liệu

Tiếng độc huyền cầm tiếp tục nỉ non réo rắt. Ðám đông đang xôn xao bỗng im bặt khi Nguyễn Ngọc Cung cất lên những lời ca đầu tiên. Vừa dứt 6 câu, trong tiếng vỗ tay giòn giã. Cung bảo ông lão mù đờn tiếp cho mình ca một bản theo điệu xuân tình. Mặc cho đám đông càng lúc càng đông và mặc trong lòng chiếc nón vải đã đầy ắp những đồng 1 hào, 2 hào, Nguyễn Ngọc Cung khi ấy như chìm trong lời ca tiếng nhạc...

Năm 1945, Nguyễn Ngọc Cung tham gia cách mạng trong tổ chức Thanh niên Tiền phong tại thị trấn Cà Mau. Năm 1946, ông bị thực dân Pháp bắt giam cùng với thân sinh là ông Nguyễn Ðạo Ðức, nhưng do không có bằng chứng kết tội, chúng phải thả. Năm 1947, ông vào chiến khu công tác, được kết nạp vào Ðảng Lao động Việt Nam.

Năm 1950, cùng với việc chỉ trích cải lương ở miền Bắc, ở vùng giải phóng Nam Bộ có nơi ra lệnh cấm cải lương, đặc biệt không được sử dụng vọng cổ, vì cho rằng “yếu đuối sẽ làm mềm tinh thần chiến đấu”.

Trước tình hình cán bộ và Nhân dân mình “ghiền” vọng cổ quá, ông Thái Ðắc Hàng, nhà ở Phường 4, TP Cà Mau, sáng tác làn điệu “Nói thơ Bạc Liêu”, tương tự như vọng cổ nhưng cũng không đáp ứng nổi nguyện vọng tha thiết của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta lúc bấy giờ.

Cũng theo ông Vũ Cao, cuối năm 1951, Chi hội Văn nghệ Nam Bộ tổ chức hội nghị tranh luận về nghệ thuật cải lương. Nhiều ý kiến tại hội nghị trái ngược nhau nhưng cuối cùng cũng đi đến kết luận: “Cải lương vẫn có tác dụng phục vụ kháng chiến”, quyết nghị trong buổi liên hoan bế mạc sẽ diễn cải lương, mời các đồng chí lãnh đạo Ðảng và chính quyền cấp lãnh đạo Nam Bộ đến xem.

Anh em phân công Nguyễn Ngọc Cung viết một vở cải lương ngắn để biểu diễn. Ngay trong buổi sáng, ông viết xong vở “Nợ nước tình nhà”. Buổi biểu diễn rất thành công. Lúc kết thúc, các đồng chí lãnh đạo Ðảng và chính quyền Nam Bộ quyết định cho phục hồi hình thức ca cải lương để phục vụ kháng chiến. Từ đó, các đoàn cải lương tăng lên gấp bội. Chỉ trong thời gian ngắn, khu giải phóng tỉnh Bạc Liêu có tới 9 đoàn, Khu 7 có 6 đoàn…

Hầu hết những vở cải lương ra đời trong thời gian này là những vở ngắn, như các vở “Huyết lệ thù” do Nguyễn Ngọc Cung và Chi Lăng viết; vở “Vẹn tình cá nước” của Nguyễn Ngọc Cung… Ðặc biệt, thời gian này, vở cải lương “Hai bó rơm” của Nguyễn Ngọc Cung ca ngợi tình đoàn kết quân dân được đưa đi lưu diễn ở nhiều nơi, kéo dài mãi đến năm 1958 và được khán giả nhiệt liệt đón nhận, trở thành nguồn động viên tinh thần to lớn đối với bộ đội và Nhân dân cả 2 miền Nam - Bắc.

Từ năm 1952 trở đi, nhiều tuồng cải lương, nhiều bài ca vọng cổ liên tục ra đời. Khi Sở Tuyên - Văn Nam Bộ phát động cuộc thi sáng tác, gọi là giải “Cửu Long 2” thì vọng cổ, cải lương bừng bừng khởi sắc. Soạn giả Mai Quân cho biết: Về cải lương, vở “Huyết lệ thù” của Nguyễn Ngọc Cung và Chi Lăng đoạt giải Nhất. Ðêm trao giải thưởng được tổ chức tại Giáp Nước, thị tứ sung túc gần đầm Bà Tường và cũng là đêm ra mắt các vở diễn nói trên.  

Ðầu năm 1955, tại cửa biển Sông Ðốc, Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung tạm biệt vợ con lên đường tập kết ra Bắc. Ra Bắc, Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung sống và sáng tác tại Hà Nội. Ông vừa là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, chuyên ngành kịch bản sân khấu, điện ảnh, vừa là thành viên sáng lập Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1958, ông là Uỷ viên Thường trực, Bí thư Ðảng đoàn Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, tham gia thành lập Ðoàn Cải lương Nam Bộ trên đất Bắc.

Thời gian này, Nguyễn Ngọc Cung sáng tác nhiều tác phẩm phục vụ công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. “Câu chuyện dưới trăng”, ca kịch truyền thanh, một thể loại chưa thật phổ biến trong lúc này, phản ánh tâm trạng binh lính, sĩ quan quân đội cộng hoà bị bắt buộc phải cầm súng đánh thuê cho quân xâm lược. Năm 1955-1957, ca kịch nêu trên phát trên sóng Ðài Tiếng nói Việt Nam, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người nghe cả 2  miền Nam, Bắc.

Ông Nguyễn Kiên Ðịnh, nguyên Giám đốc Sở Văn hoá - Thông tin Minh Hải (nay là Cà Mau, Bạc Liêu), cho biết: “Trong thời chống Pháp, một số tháng tôi được ở gần anh Nguyễn Ngọc Cung, sau đó anh Cung đi tập kết. Khi ra Bắc, nghe ảnh viết một số bài vọng cổ, tiếp tục soạn thêm một số tuồng. Tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Bắc là "Kiều Nguyệt Nga", anh cũng là người viết kịch bản phim "Biển động"…”.

Kịch bản phim truyện "Biển động" đã hoàn thành từ năm 1956 và tổ chức dàn dựng vào năm 1957, tại vùng biển Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Nội dung phim tái hiện cuộc khởi nghĩa oai hùng tại Hòn Khoai, vùng đất cuối trời Nam năm 1940, do nhà cách mạng Phan Ngọc Hiển lãnh đạo.

Năm 1961, Trung ương phân công Nguyễn Ngọc Cung về Nam. Năm 1963, ông phụ trách Chi hội Văn nghệ miền Nam, công tác tại vùng U Minh Hạ. Cho đến bây giờ, Nhạc sĩ Trần Thanh Hoà, nguyên Phó Ðoàn Văn công khu Tây Nam Bộ vẫn nhớ như in tình nghĩa, tấm lòng, đức độ, phong cách của Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung, đặc biệt là những tác phẩm một thời từng đi vào lòng người: “Anh Cung lúc đó đã có nhiều vở, hay nhất là “Kiều Nguyệt Nga”. Vở thứ hai là “Trương Ðịnh”. Vở thứ ba là "Biển động" - chúng tôi thường gọi là vở Phan Ngọc Hiển, vì nói về Phan Ngọc Hiển.

Còn bài ca lẻ, ảnh viết rất nhiều, anh em ca bài của ảnh rất mến. Tôi thuộc mấy bài liền của ảnh, trong đó có bài Xuân tình, viết về anh hùng La Văn Cầu. Ở Cà Mau hồi chống Pháp dường như ai cũng thuộc: Có người ở tỉnh Cao Bằng, huyện Trùng Khánh, xã Nùng Dinh/Dân thiểu số tên La Văn Cầu...”.

Theo lời kể của Nguyễn Ngọc Bình, con trai út của Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung, năm 1964, ông về Cà Mau công tác đã tìm cách liên hệ để rước vợ con vào thăm. Lãnh đạo Ðoàn Văn công giải phóng Cà Mau hết sức thông cảm, tổ chức chu đáo để hai con người sau nhiều năm góc biển, chân trời được đoàn tụ, sum vầy.

Dù đã hơn 50 năm, Nghệ sĩ sân khấu Huỳnh Hảnh vẫn không quên những ngày Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung ở tại căn cứ Ðoàn Văn công giải phóng Cà Mau: “Chính anh Mười Mây, trưởng đoàn, phân công tôi bố trí lực lượng đi rước chị Ngọc Cung. Chúng tôi rước chị vào kinh Ông Ðơn. Thời kỳ đó “cứ” văn công có hội trường lớn, chung quanh là nhà của diễn viên. Anh em lựa một cái nhà cách xa hội trường của đoàn để cho anh chị ăn ở mấy hôm nơi đó”.     

Năm 1965, Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung trở lại Tiểu ban Văn nghệ Trung ương Cục tại tỉnh Tây Ninh. Thời gian này, giặc Mỹ đã tiến hành chiến lược Chiến tranh cục bộ ở Việt Nam. Quân thù quyết tiêu diệt bằng được căn cứ Trung ương Cục miền Nam. Dù mưa bom, bão đạn suốt cả đêm ngày nhưng khí thế chiến đấu của quân dân ta vẫn sôi sục. “Tiếng hát vẫn át tiếng bom”, hàng triệu người vẫn rầm rập tiến lên phía trước. Ðội ngũ văn nghệ sĩ vẫn “tay viết, tay súng”, không rời trận địa.

Nghệ thuật cải lương nam bộ ghi mãi tên ông

Ngày 18/6/1966, B52 dội bom xuống căn cứ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục ở vùng Suối Cây, tỉnh Tây Ninh, khiến Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung, Phạm Trần, Phong Anh và Nghệ sĩ Bảy Lương hy sinh. Chiến tranh đã cướp mất 4 tài hoa sân khấu cùng một lúc. Ðiều đau đớn nhất, khi B52 rải thảm lần thứ hai sau đó không lâu, mộ phần của Soạn giả liệt sĩ Nguyễn Ngọc Cung đã hoá thân vào lòng đất thép.

Sau ngày miền Nam giải phóng, con gái và con trai của Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung là Nguyễn Ngọc Hoà và Nguyễn Ngọc Bình dành nhiều thời gian lặn lội, cuối cùng mới tìm được di mộ tượng trưng của thân sinh tại Nghĩa trang Liệt sĩ TP Hồ Chí Minh qua lời chỉ dẫn của các chú, các cô công tác với cha mình hơn 50 năm trước.

Gần đây, trở lại vùng căn cứ Tây Ninh, nơi biết bao dấu vết đạn bom bị dông tố thời gian vùi lấp, Nguyễn Ngọc Bình thắp hương trên những hố đất giữa chốn rừng già. Có nỗi đau chia ly nào sánh được khi từng cội cây, thềm lá bây giờ đều thấm đẫm máu xương và anh linh của người cha yêu thương chưa một lần biết mặt!

Từ năm 1961-1975, Tiểu ban Văn nghệ của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam có đến 23 cán bộ, soạn giả là văn nghệ sĩ hy sinh trên chiến trường miền Ðông Nam Bộ như Trần Hữu Trang, Nguyễn Ngọc Cung, Thanh Nha…

Nhiều thế hệ đương đại lúc nào cũng khâm phục, kính yêu, ngưỡng mộ, bày tỏ sự tri ân sâu sắc từ trái tim đối với Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung, người con tài hoa của đất nước.

Soạn giả cải lương Tiết Văn Dũng, người con của quê hương xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, từ lâu ngưỡng mộ Nguyễn Ngọc Cung, bộc bạch: “Tôi rất trân trọng tài năng và trí tuệ của chú Nguyễn Ngọc Cung. Ðại thi hào Nguyễn Du đã viết: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, tôi cảm thấy tinh anh của chú còn đọng mãi trong lòng, vì thế tôi cố gắng học theo chú rất nhiều...”.

Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tại Rạp Quốc Thanh, TP Hồ Chí Minh, vở cải lương "Kiều Nguyệt Nga" của cố Soạn giả Nguyễn Ngọc Cung được liên tục trình diễn do các nghệ sĩ Bạch Tuyết, Thanh Sang, Út Trà Ôn giữ vai chính. Thời kỳ ấy, khán giả nồng nhiệt chào đón cải lương với tất cả niềm say mê, háo hức.

Ngày 8/1/1998, ông Bảo Ðịnh Giang, nguyên Uỷ viên Thường trực Ðảng, Ðoàn Văn nghệ Trung ương, nguyên Tổng Thư ký Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Văn nghệ miền Nam - phụ trách cán bộ đi “B” thời chống Mỹ, xác nhận và đề nghị truy tặng huân chương xứng đáng đối với Nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Cung: “Nguyễn Ngọc Cung là người có công đóng góp quan trọng đối với nền nghệ thuật cải lương Nam Bộ. Ðồng chí đã viết những vở có giá trị. Khi về Nam chống Mỹ, vẫn tiếp tục viết và hy sinh ở chiến trường. Tên của đồng chí được đặt cho một con đường ở TP Hồ Chí Minh…”. Tại Phường 8, TP Cà Mau cũng có con đường mang tên Nguyễn Ngọc Cung.

“Một tiếng tơ đồng bằng trăm cân thuốc nổ

Giọng oanh vàng làm nước đổ, thành nghiêng!”

Am tường lời tổng kết của người xưa, chúng ta mới hiểu vì lẽ gì Nguyễn Ngọc Cung đã hiến dâng tất cả cuộc đời mình cho nghệ thuật, cho Nhân dân, cho đất nước./.

Trường Sơn Ðông

Sống chậm, nhẫn hơn cùng nhiếp ảnh

Tay máy nữ Bảo Huy tên thật là Lê Thị Thu Thuỷ, sinh năm 1973, quê tỉnh Quảng Nam, hiện sinh hoạt tại Câu lạc bộ (CLB) Nhiếp ảnh nghệ thuật Sông Hàn (Ðà Nẵng).

Ca khúc cách mạng hút khán giả trẻ

Góp công lớn khiến các ca khúc cách mạng Việt Nam “sống lại lần nữa cùng thời đại” chính là sự kiện lễ diễu binh dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) vừa qua.

Cà Mau tạo ấn tượng đẹp tại Hội thi Tiếng hát Người khuyết tật toàn quốc lần 3, năm 2025 khu vực phía Nam

Trong 2 ngày: 26 và 27/5, tại UBND quận Bình Thạnh (TP Hồ Chí Minh), Hội Bảo trợ Người khuyết tật và Trẻ mồ côi Việt Nam chủ trì phối hợp với Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch tổ chức Hội thi Tiếng hát Người khuyết tật toàn quốc lần thứ 3, năm 2025 - khu vực phía Nam với chủ đề “Tiếng hát từ trái tim”.

Lý Hải: “Gia đình luôn là điểm tựa vĩnh cửu"

Chứng kiến nhiều câu chuyện gia đình trong cuộc sống hiện đại, nhịp sống hối hả, áp lực, thế nên Ðạo diễn Lý Hải mong muốn những bộ phim của mình sẽ là tấm gương phản chiếu mâu thuẫn giữa các thế hệ, để mọi người thấu hiểu nhau hơn, cùng tháo gỡ.

Sôi nổi hội thi Chúng em kể chuyện Bác Hồ

Nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2025), từ ngày 22-23/05, Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch phối hợp Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh tổ chức Hội thi Chúng em kể chuyện Bác Hồ với chủ đề “Bác Hồ trong trái tim em”. Hội thi diễn ra tại Thư viện tỉnh Cà Mau.

Triển lãm ảnh “Trường Sa nhớ ơn Bác”

Kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2025) và 70 năm ngày truyền thống Hải quân Nhân dân Việt Nam (7/5/1955-7/5/2025), được sự chỉ đạo của Hội Nhiếp ảnh TP Hồ Chí Minh, từ ngày 19-21/5/2025, tại Ðường Sách TP Hồ Chí Minh, toạ lạc trên đường Nguyễn Văn Bình, phường Bến Nghé, Quận 1, TP Hồ Chí Minh, diễn ra triển lãm ảnh "Trường Sa nhớ ơn Bác".

KHI CÀ MAU – BẠC LIÊU HỢP NHẤT

Ta lại về cùng chung một mái nhà Như hai anh em mừng ngày sum họp Không gian rộng mở cho tình người tình đất Mảnh đất cuối trời chảy suốt những dòng sông

Ði tìm nét đẹp cuộc sống

Yêu thích chụp ảnh từ khi còn trẻ, nhưng vì nhiều mối bận tâm, công việc, gia đình..., đến năm 2017, được người bạn tặng máy ảnh, chị Nguyễn Hồng Nhung mới bắt đầu bén duyên với bộ môn yêu thích bấy lâu. Năm 2019, sức khoẻ chị giảm sút, sau đó dịch Covid-19 hoành hành nên cuộc chơi cùng nhiếp ảnh đành gián đoạn mất 4 năm.

“Búp sen xanh” - Sách gối đầu của thế hệ măng non

Trong vô số tác phẩm văn học Việt Nam viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Búp sen xanh” của Nhà văn Sơn Tùng là cuốn sách đặc biệt, cẩm nang xúc động về tuổi thơ, tuổi trẻ của Bác. "Búp sen xanh" là tiểu thuyết lịch sử đầu tiên về Bác Hồ, ra đời năm 1982. Qua ngôn ngữ bình dị, thấm đẫm tình yêu của Nhà văn Sơn Tùng, tác phẩm tái hiện đầy đủ nhất hành trình hình thành lý tưởng cứu nước của Nguyễn Tất Thành từ lúc còn là cậu bé Làng Sen đến ngày rời Bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Ðạo diễn Nguyễn Phương Ðiền: "Khán giả càng khen, càng phải nâng cấp cách làm phim"

Ðạo diễn Nguyễn Phương Ðiền là cái tên không xa lạ với khán giả miền Tây. Anh "chuyên trị" dòng phim xưa với nhiều tác phẩm ăn khách như: "Lưới trời", "Tiếng sét trong mưa"...