(CMO) Nữ văn sĩ Pháp Marie Darrieussecq từng nói:
“Đọc là biến đi khỏi thế giới
Đọc là tìm lại được thế giới
Đọc là còn lại một mình với cả thế giới trong lòng bàn tay”
Ta sẽ thoát khỏi thế giới xô bồ, bận rộn, vội vàng trong từng khoảnh khắc để tìm về một cánh cửa mới - cánh cửa xưa cũ, cánh cửa hoài niệm và cánh cửa của lòng tri ân. Ta sẽ còn lại “một mình với cả thế giới trong lòng bàn tay” khi đọc và tìm hiểu sâu sắc những ý trong từng bài thơ trong tập thơ "Đỏ miền ký ức" của tác giả Hoa Hồng (Trần Ngọc Hoà).
Nhà thơ đã tái tạo cả một miền dĩ vãng chưa xa về cuộc chiến tranh tàn khốc với những lời thơ hết sức giản dị, mộc mạc, dân dã, mang đầy đủ tâm hồn của một người con đất Việt. Thơ chị mang đến cho người đọc cảm giác nghẹn lòng. Đây là tiếng gọi thiết tha của những người đang sống gửi đến những người đã ngã xuống khi tháng Bảy về - tháng tri ân của cả dân tộc dành cho các anh hùng, thương binh, liệt sĩ:
“Lại một mùa cây ghi nhớ đơm bông
Mùa hoa công ơn rộ nở
Mùa người trở về còn mắc nợ
Lời hứa với đồng đội còn lơ lửng giữa trời xanh”
(Tháng Bảy rồi về nhà đi anh)
Người mẹ tìm con đau đáu trong lòng:
“Tháng Bảy thả giọt buồn xuống khắp nghĩa trang
Con trai mẹ nằm đâu trong những hàng mộ đó?
Mẹ ôm các con vào lòng nghe thu về ngậm gió
Một khúc ầu ơ….
nấc nghẹn rớt bên đời”.
Thời gian cứ trôi “ngàn thu ngậm gió”, lời hỏi của mẹ đã lạc vào hư không, sự im lặng đến tuyệt vọng. Vẳng bên hàng mộ là một khúc ru của mẹ, mẹ khao khát được ôm trọn vẹn những đứa con của mình vào lòng như lúc còn thơ dại, “khúc ầu ơ…” đã “ nấc nghẹn” rồi “ rớt bên đời” - đó là nỗi đau vô tận. Có những nấm mộ được khắc tên. Nhưng vẫn còn đó vô số những người anh hùng “vô danh”, và mẹ chỉ biết:
“Mộ nào không tên mẹ dành bông hoa đỏ
Mộ nào có tên mẹ tặng một bông vàng”
Không chỉ là nỗi nhớ của người mẹ, mà thơ chị còn da diết nỗi nhớ thương, khắc khoải của người “goá phụ” nhưng tất cả chỉ giấu kín nỗi lòng, bài thơ “Thuyền giấy” có sáu khổ thơ, chị đã dùng ba khổ để diễn tả người vợ giấu nỗi lòng mình vào trăng, vào chiều, và cả giọt nước mắt vào mưa. Có lẽ nỗi buồn thương lớn nhất là nỗi nhớ không được thốt ra: “Chị giấu buồn trên trăng/Chị giấu nhớ trong vạt chiều buông/Chị giấu nước mắt vào mưa, sụt sùi bong bóng phập phồng...”.
Nhưng rồi, cảm xúc vỡ oà khi người chồng đã ra đi vĩnh viễn không về:
“Đêm Chiêu Anh goá phụ nhớ chồng
Chị viết bài thơ lên con thuyền giấy
Bài thơ có anh bộ đội sốt rét rừng run rẩy
Có chiếc võng - đại ngàn ru anh giấc ngủ nghìn thu”
Vết thời gian đã làm nhạt phai nhan sắc của người con gái và đến bên anh chị điểm chút ngọt ngào để còn kịp nhận ra nhau. Câu thơ thấm đẫm nỗi đau từ sự chia ly: “Chị sợ anh không nhận ra... chị của ngày xưa”. Lời thơ cũng hết sức ấm lòng vì có lời hát của chị, giấc ngủ của anh lồng trong lời hát ấy:
“Chị hát!
Cho trời Khe Sanh ửng một vừng hồng
Cho những hy sinh, đợi chờ được mất
Cho mạch quê hương chảy vào lòng đất
Cho yêu thương tràn trên những nấm mồ”
Đó cũng là khúc tìm nhau mỏi mòn, tuyệt vọng của những người ở lại:
“Anh nằm đây giữa bao la trời đất
Tên đồng đội mà di hài ẩn dật
Thu nghẹn ngào nức nở khúc tìm nhau”
Đọc những vần thơ của nhà thơ, tôi cứ nghĩ mãi về tình yêu thương, sự cảm thông, đồng điệu của chị như chính đối với những người đồng chí của mình. Có những ngôi mộ không tên, có cả những ngôi mộ không có di hài. Các anh vẫn ở đâu đó trong lòng đất của quê hương, các anh đã ngủ giấc ngàn thu.
Khúc hát tìm nhau cứ ngân mãi trong suốt hơn 40 năm. Ở đâu đó, họ vẫn tìm nhau, tìm các anh để trở về sum vầy cùng mẹ, cùng vợ, cùng các con thương yêu.
Tập thơ “Đỏ miền ký ức” rất nhiều cung bậc cảm xúc, rất nhiều bài thơ hun đúc trái tim của mỗi con người khi bước chân vào ngôn từ nghệ thuật thi ca của Ngọc Hoà. Đặc biệt, chị ưu ái dành nhiều dung lượng cho quá khứ đau thương, nhưng không vì thế mà bi luỵ.
Là lớp thanh niên chưa hề tận mắt chứng kiến chiến tranh, nhưng qua tập thơ “Đỏ miền ký ức” giúp tôi hiểu sâu sắc những giá trị tốt đẹp mà cha ông ta đã phải bỏ xương máu của chính mình để mang về ánh sáng tuyệt vời cho dân tộc Việt Nam. Tập thơ còn hun đúc trong tôi từng khoảnh khắc yêu thương, từng nhịp đập của trái tim, từng hơi thở ấm nồng của đất mẹ. Từng lời thơ mang đến niềm tự hào về cha ông, thêm yêu quý hơn Tổ quốc của chính mình. Có lẽ sự hiểu biết của tôi không nhiều về chiến tranh nhưng qua tập thơ đã là bài học quý báu về tình người, tình đất. Cảm ơn chị đã đem tâm hồn mình đồng điệu với thời gian, và cất lên tiếng nói yêu thương từ trái tim.
Những lời thơ khép lại, với tôi còn một niềm tin về ngày mai: “Nhẹ thôi mùa ơi xoa dịu niềm đau/Nhẹ thôi nắng hãy ôm tóc ai điểm bạc/Nhẹ thôi hương yêu mơn man miền khao khát/Để nụ hôn tình… bung nở trước bình minh” (Ru anh ngàn thu).
Vâng! “Nhẹ thôi” nhưng cũng đủ bừng sáng yêu thương và đau đáu tiếng gọi tìm nhau./.
Ngọc Vân