(CMO) Như một sự lựa chọn của lịch sử, sau Khởi nghĩa Nam Kỳ, đồng chí Võ Văn Kiệt về Bạc Liêu (nay là Bạc Liêu và Cà Mau) để móc nối với các đồng chí ở Tỉnh uỷ Bạc Liêu, trong đó có đồng chí Trần Văn Sớm, gầy dựng lực lượng, sản xuất vũ khí để khởi nghĩa lần hai.
Tại đây, đồng chí Võ Văn Kiệt hoá trang với nghề gặt mướn và bốc vác lúa ở miệt Cái Nước, rồi lên thị trấn Cà Mau. Ðể rồi Bạc Liêu và Cà Mau trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, liên tục in đậm những dấu ấn hoạt động của đồng chí với những cương vị khác nhau.
Ông Phạm Văn Kịch (tóc bạc) và ông Dương Thanh Tuấn, Bí thư Ðảng uỷ xã Trung Hiệp dâng hương tại khu gia mộ họ Phan. |
Dấu chân trên vùng chóp mũi...
Trong những năm từ 1950-1953, với vai trò Phó bí thư, rồi Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu (Cà Mau - Bạc Liêu) thời kháng Pháp, đồng chí Võ Văn Kiệt đã thể hiện được nhãn quan cách mạng sắc bén của mình bằng việc “phá rào chủ trương bao vây kinh tế địch” giữa vùng giải phóng và vùng địch tạm chiếm. Trước thực trạng vùng giải phóng nông sản dồi dào nhưng không thể giao thương được, đời sống người dân gặp vô vàn khó khăn vì thiếu hàng nhu yếu phẩm, công nghệ phẩm. Nông sản ùn ứ, đời sống chật vật, trong dư luận người dân không đồng tình với chủ trương này. Từ đó, xảy ra tình trạng người dân “nhảy dù”, “vượt rào” giữa các vùng để trao đổi mua bán.
Sau khi khảo sát, nắm chặt thực tế, nhiều lần thỉnh thị ý kiến cấp trên chưa nhận được hồi đáp, đồng chí Võ Văn Kiệt, cùng với Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bạc Liêu đề xuất phương án thí điểm cho bà con huyện Giá Rai được tổ chức giao thương giữa 2 vùng. Từ sự đồng thuận của người dân, kết quả đạt được tích cực, Tỉnh uỷ Bạc Liêu báo cáo với Xứ uỷ và Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ để cho Bạc Liêu tiếp tục triển khai chủ trương này.
Theo Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp: “Khi Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ cho phép mở rộng giao lưu kinh tế giữa 2 vùng, các huyện Vĩnh Lợi, Giá Rai, Cà Mau thành lập các trạm xuất nhập thị. Ðồng bào rất phấn khởi, kinh tế khác trước. Các chợ Phước Long, Huyện Sử, Thới Bình, Rau Dừa, Cái Nước được gọi là Sài Gòn mới; xuồng ghe, tiệm quán rộn ràng mua bán”.
Sau Hiệp định Genève 1954, Cà Mau là khu vực tập kết 200 ngày của Nam Bộ. Trung ương Cục chỉ thị cho Tỉnh uỷ và Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính tỉnh Bạc Liêu (Cà Mau - Bạc Liêu) xây dựng khu tập kết 200 ngày thành hình mẫu của chính quyền cách mạng. Tỉnh uỷ Bạc Liêu, đứng đầu là đồng chí Võ Văn Kiệt, nhận thức rất rõ vấn đề là phải xây dựng chính quyền cách mạng thực sự “của dân, do dân và vì dân”. Chỉ trong 200 ngày ngắn ngủi, nhưng một cuộc sống tươi mới, hừng hực khí thế, không khí của một ngày hội thật sự đã được thổi khắp những thôn làng, thị trấn nơi chính quyền cách mạng tiếp nhận. Ðây trở thành hình mẫu thể hiện sự ưu việt của cách mạng. Nói như lời của đồng chí Võ Văn Kiệt: “Người ta gọi vàm sông Ông Ðốc là Thủ đô của Nam Bộ, nhộn nhịp lắm, đông vui lắm”.
Trong chuyến tàu tập kết rời bến sông Ông Ðốc, mọi người đều nhìn thấy đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ, cùng nhiều cán bộ cao cấp khác vẫy tay tạm biệt đồng bào để lên tàu Kilinxky của Ba Lan. Mọi người đều đưa 2 ngón tay lên trời, cùng hứa hẹn sau 2 năm gặp lại. Nhưng với âm mưu thâm hiểm của kẻ thù, hoá ra ngày hẹn trở về lại mất đến 20 năm. Chính đồng chí Võ Văn Kiệt đưa ca nô bí mật ra đón đồng chí Lê Duẩn ở lại với đồng bào Cà Mau, đồng bào miền Nam.
... và trên vùng rừng U Minh
Từ năm 1970-1973, với vai trò Bí thư Khu uỷ Khu 9 (Tây Nam Bộ), đồng chí Võ Văn Kiệt trở lại Cà Mau, nơi đứng chân chỉ đạo là huyện Ðầm Dơi và Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
Tình cảnh chiến trường Tây Nam Bộ hết sức khó khăn, giặc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành 4 đợt chiến dịch nhổ cỏ U Minh, dùng phương tiện chiến tranh tối tân, như B52, pháo hạm, các lực lượng chủ lực hòng tiêu diệt, bứng gốc cách mạng. Trong dân gian ở Cà Mau, còn lưu truyền câu nói “Chừng nào đồn giặc đóng dày như bàn tay, khi đó giặc Mỹ sẽ thua”, và ít người biết rằng đó chính là nhận định của đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Khu uỷ Khu Tây Nam Bộ.
Cụm công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau, công trình trọng điểm quốc gia với tầm nhìn chiến lược mang đậm dấu ấn của cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt. |
Với sự chỉ đạo của đồng chí Võ Văn Kiệt, toàn miền Tây Nam Bộ đã anh dũng, kiên trung, đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Bọn giặc hoang mang, sa lầy, phải co cụm lại để phòng thủ đầu não Cần Thơ, Chương Thiện. Và sau khi thua trên bầu trời Hà Nội trong trận Ðiện Biên Phủ trên không lừng lẫy, việc ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 là thắng lợi tất yếu của cách mạng.
Với bản lĩnh, nhãn quan cách mạng tài tình, đồng chí Võ Văn Kiệt đã "đọc" được tình hình rất nhanh từ trước khi Hiệp định Paris được ký kết. Vào ngày 20/10/1972, đồng chí Võ Văn Kiệt nhận định: “Dù Mỹ - nguỵ có thực hiện Hiệp định Paris hay không, chúng ta phải quán triệt tư tưởng tiến công, luôn luôn lúc nào cũng phải chủ động tiến công giặc để giành từng tấc đất, cọng rau, từng người dân”. Bài học sâu sắc về Hiệp định Genève đã giúp vị Bí thư Khu uỷ Tây Nam Bộ nhìn ra được bộ mặt tráo trở, hung hiểm của kẻ thù.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Nghị quyết của Bộ Chính trị nhấn mạnh quan điểm hoà hợp, hoà giải dân tộc. Nhưng từ thực tiễn chiến trường Tây Nam Bộ, ông Sáu Dân đã mạnh mẽ lên tiếng: “Nếu không đánh địch bình định lấn chiếm, mất đất, mất dân là mất tất cả”. Chính tư tưởng tiến công ấy của ông Sáu Dân đã được Ðảng, Bộ Chính trị lắng nghe, từ đó xác định rõ trong Nghị quyết 21: “Con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng, bất kể trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối tiến công. Phải xoá bỏ chính quyền tay sai của Mỹ, xoá bỏ chế độ thực dân mới, thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới thống nhất đất nước”.
Mùa xuân đại thắng 30/4/1975, Bạc Liêu và Cà Mau cùng với cả nước đã hoàn thành lời hứa với Bác Hồ là đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào. Ðồng chí Võ Văn Kiệt cùng với đồng chí, đồng đội, đồng bào hân hoan trong niềm vui miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất ngay tại đầu não chính quyền tay sai tại Sài Gòn. Một kỷ nguyên mới của nước Việt Nam mở ra trong thời đại Hồ Chí Minh, và ông Sáu Dân, trên những cương vị mới, lại tiếp tục dõi mắt hướng về mảnh đất Bạc Liêu - Cà Mau, như quê hương thứ hai của đời mình./.
Chí Diện - Phong Phú - Hải Nguyên
Bài cuối: NGƯỜI CÀ MAU VÀ NGHĨA TÌNH SÂU ÐẬM VỚI BÁC SÁU DÂN