ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 8-1-25 21:34:24
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trọng Nguyễn: Danh sĩ đất Bạc Liêu - Cà Mau

Báo Cà Mau Đã mấy năm nay, ngày nào cũng vậy, một ông già đen đúa, hom hem, lụm cụm đến quán trước cơ quan tôi để ăn sáng. Vì ông rất ít nói nên cũng ít ai ngồi với ông, thường thì ông chỉ ngồi một mình với ánh mắt mơ màng, xa xăm. Dáng vẻ bên ngoài của ông không có gì đặc biệt nên ông lẩn khuất trong thiên hạ. Thế nhưng, khi thấy ông đi ăn sáng ngày càng trễ, người ngày càng gầy yếu thì tôi ứa nước mắt. Bởi vì, với tôi, ông không phải là một người bình thường, ông chính là danh sĩ đất Bạc Liêu - Cà Mau: soạn giả Trọng Nguyễn.

Đã mấy năm nay, ngày nào cũng vậy, một ông già đen đúa, hom hem, lụm cụm đến quán trước cơ quan tôi để ăn sáng. Vì ông rất ít nói nên cũng ít ai ngồi với ông, thường thì ông chỉ ngồi một mình với ánh mắt mơ màng, xa xăm. Dáng vẻ bên ngoài của ông không có gì đặc biệt nên ông lẩn khuất trong thiên hạ. Thế nhưng, khi thấy ông đi ăn sáng ngày càng trễ, người ngày càng gầy yếu thì tôi ứa nước mắt. Bởi vì, với tôi, ông không phải là một người bình thường, ông chính là danh sĩ đất Bạc Liêu - Cà Mau: soạn giả Trọng Nguyễn.

Quê ông ở xã Quách Văn Phẩm, huyện Đầm Dơi (tỉnh Cà Mau). Ông sinh năm 1938 và đi làm cách mạng từ rất sớm - năm 1954. Lúc đầu làm giáo viên, sau đó lên làm diễn viên Đoàn Văn công tỉnh. Và sau nữa là làm Bí thư Chi bộ, Chính trị viên Đoàn Văn công Khu Tây Nam Bộ. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông làm cán bộ Ban Tuyên giáo, Ty Văn hoá - Thông tin, rồi được bầu làm Phó Chủ tịch Hội VH-NT tỉnh, được kết nạp vào Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Khi tỉnh Minh Hải chia tách năm 1997, ông được điều về Bạc Liêu làm Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật (VHNT) tỉnh và Tổng Biên tập Tạp chí Dạ cổ hoài lang, Liên chi hội trưởng Chi hội Sân khấu ĐBSCL, rồi nghỉ hưu năm 2002.

Soạn giả Trọng Nguyễn.     Ảnh: HUỲNH LÂM

Nhìn vào lai lịch ấy, thấy hoạt động của ông ít dính líu đến một nghề làm nên danh phận Trọng Nguyễn. Đó là sáng tác kịch bản cải lương và ca từ vọng cổ. Thật ra, tài năng ông toả sáng hồi còn rất trẻ. Với “Giọt máu oan cừu” từ những năm 60 ông đã là một soạn giả mát tay của cải lương Nam Bộ.

Tôi sinh trưởng tại Bạc Liêu, một vùng đất giàu truyền thống văn hoá - văn nghệ. Và cũng như Trọng Nguyễn, khi tôi mở mắt chào đời là đã thấy quê hương mình chan hoà cái màu xanh đến huyền hoặc của lá dừa nước và đồng ruộng mênh mông cánh cò. Ở đó, man mác, dập dờn, bảng lảng làn điệu 6 câu vọng cổ. Lúc 7, 8 tuổi tôi đã mê muội đi theo mấy anh trong xóm đờn ca mà nghe vọng cổ. Đất của quê nghèo sinh ra hạt lúa ốm nhom nuôi nấng thể chất người quê, còn làn điệu vọng cổ và các bài bản cổ nhạc chở theo tình yêu, luân lý cuộc đời đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn của họ. Các làn điệu ấy đã làm dịu nhẹ, sưởi ấm những tủi cực, đau thương mất mát của chiến tranh máu lệ để người Bạc Liêu, Cà Mau đi tới hôm nay.

Khi tôi lớn lên, trở thành chàng thanh niên đứng ngơ ngác trước cuộc đời bỗng nghe tuồng cải lương Giọt máu oan cừu, Rừng thần; rồi các bản vọng cổ như: Ơn Đảng, Quê anh quê em, Đồng bìm bịp, Cánh đồng năn, Bên sông Vàm Cỏ… Sau nữa là các bản: Giọt sữa cuối cùng, Mỹ Tho mùa trăng bến hẹn, Chợ mới, Phùng Ngọc Liêm, Hậu Giang chiều vắng em, Bạc Liêu ngày ấy, Đêm Châu Hưng… của soạn giả Trọng Nguyễn.

Ông đã mượn làn điệu vọng cổ và các bài bản cổ nhạc Bạc Liêu để chuyên chở những quá khứ, những bi tráng của đất quê hương, của Cà Mau mảnh đất chôn nhau cắt rốn của ông mang tặng cho đời. Tôi nghe tác phẩm của ông và tôi thổn thức, tôi hiểu đất này có được từ mồ hôi nước mắt của cha ông dựng nghiệp từ nghèo khó, cơ nhỡ. Họ phải đương đầu với áp bức, bất công của thực dân đế quốc. Họ phải tiến hành cuộc đấu tranh trong mưa bom bão đạn để giữ đất, giữ nền độc lập dân tộc bằng máu và nước mắt. Rằng không có Đảng chỉ lối soi đường thì mãi mãi đất này chìm trong nô lệ…

Nghe cải lương, vọng cổ của ông, tôi hiểu chiều sâu của đất Bạc Liêu, Cà Mau và những điều lớn lao của cuộc đời, và tôi yêu tôi quý cái mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình, cũng như con đường mà tôi chọn.

Tôi ngẫm nghĩ, nghệ phẩm của Trọng Nguyễn quả là có sức mạnh. Và chính vì sức mạnh ấy nên nó lan xa, toả rộng. Còn nhớ thời kỳ bao cấp, tuy đói ăn nhưng nghe Đoàn Cải lương Hương Tràm về các xã biểu diễn những vở Giọt máu oan cừu, Rừng thần… của Trọng Nguyễn thì bà con náo nức khăn áo băng đồng có khi cả chục cây số để đi xem. Những vở diễn ấy chẳng những đáp ứng được nhu cầu thưởng thức văn nghệ của quần chúng, mà còn góp phần quan trọng làm nên danh phận của một số nghệ sĩ Bạc Liêu, Cà Mau như: Minh Đương, Minh Hoàng, Minh Chiến, Thanh Thảo… và những thế hệ sân khấu cải lương sau này nữa.

Còn các bài vọng cổ của ông dù nó là tình ca, sử ca hay quê hương ca cũng đều mượt mà. Ca từ của Trọng Nguyễn không phải là loại ngôn từ bác học, nhưng nó dung dị, mượt mà, là lời ca của tận đáy lòng, cho nên nó dễ đi vào lòng người. Ở khắp làng quê Bạc Liêu, Cà Mau và cả ĐBSCL rộn ràng lời ca của Trọng Nguyễn trong những ngày sớm nắng chiều mưa. Ở những cuộc thi Tiếng hát truyền hình, số lượng người đăng ký hát bài ca của Trọng Nguyễn đạt con số kỷ lục. Ta đi vào một vùng quê hẻo lánh và ta hỏi cái tên Trọng Nguyễn thì gần như ai cũng biết. Có lần ông về Long Điền, mấy cô gái ở xóm chờ tới tối, kéo đến thập thò trước cửa xem mặt Trọng Nguyễn. Một cô vào xem rồi trở ra nói với mấy cô bạn của mình: “… Ổng đen thui hà tụi mầy ơi!”.

Một đời làm văn nghệ sĩ, đẻ ra dăm ba đứa con tinh thần để đời là đã gọi thành công. Thế nhưng, đời soạn giả của Trọng Nguyễn có rất nhiều đứa con tinh thần để đời mà tôi đã liệt kê ở trên. Nói như thế mới thấy Trọng Nguyễn lớn lao. Và ngẫm ra cuộc đời cũng thật công bằng, Trọng Nguyễn mang tâm hồn, trái tim thật nhất của mình đến với cuộc đời thì cuộc đời cũng nồng nhiệt đáp trả ông như vậy.

Sau năm 1997, tỉnh Bạc Liêu tái lập, tôi có dịp gần gũi hơn với Trọng Nguyễn. Lúc ông làm Chủ tịch Hội VH-NT tỉnh thì tôi là Uỷ viên Thường vụ Hội. Thời gian gần gũi ấy đã giúp tôi phát hiện nhiều điều thú vị về Trọng Nguyễn. Có lần tôi viết kịch bản văn học cho một phim tài liệu về Bạc Liêu, tôi cùng ông và anh Thanh, Phó Chủ tịch Hội VH-NT tỉnh đến thông qua Thường vụ Tỉnh uỷ. Đọc tới đoạn chị Nguyễn Thị Tư ở Vĩnh Hưng cho con bú thật no trước khi giặc giết, ông ứa nước mắt rồi nói nhỏ: “Mầy cho tao xin đoạn này, tao viết vọng cổ”. Thế là, bài Giọt sữa cuối cùng ra đời, làm thổn thức bao trái tim.

Trọng Nguyễn tài năng như thế, ông biết chớp lấy những điều nhỏ để làm nên một tác phẩm lớn. Cái tài của ông được khởi phát từ tâm hồn nhạy cảm của ông. Nhưng người có tâm hồn nhạy cảm lại hay đa đoan. Ông yêu đời, yêu quê hương và yêu vẻ đẹp của người phụ nữ. Cứ mỗi lần viết được một bài vọng cổ hay, nổi tiếng là gần như trước đó ông yêu một người. Ông nói nhỏ với tôi: “Hồi đi viết bài Chợ mới hay bài Mỹ Tho mùa trăng bến hẹn là tao đi thăm người yêu”. Vâng! Ông đã lấy cái nồng nàn, cái thiết tha của tình yêu riêng để làm nên cái hồn nồng nàn, thiết tha của tác phẩm. Vì thế, tác phẩm của ông dễ gây xúc động nhiều người.

Trọng Nguyễn sinh trưởng, đi kháng chiến ở Cà Mau nhưng ông có một thời gian cư trú trên quê hương Bạc Liêu. Ông nói với nhiều người rằng, chính các làn điệu cổ nhạc của Bạc Liêu đã chắp cánh, xây đắp danh tính nghệ sĩ của ông. Nếu Cà Mau là nơi sinh ra hình hài, nuôi dưỡng tâm hồn ông, thì Bạc Liêu tặng ông gần như toàn bộ sự nghiệp sáng tác. Thế nên, Trọng Nguyễn vừa yêu quý Cà Mau nhưng lại gắn bó thiết tha với Bạc Liêu. Tôi đã nhiều lần thấy ông tỏ thái độ kính trọng Cao Văn Lầu và nghệ phẩm của bác Sáu Lầu như một ông thầy của mình. Mỗi lần có hội thảo về Cao Văn Lầu, Trọng Nguyễn đều có bài tham luận bằng tình cảm chứa chan. Ông là một trong những người đề xuất đổi tên Tạp chí Văn nghệ Bạc Liêu thành Tạp chí Dạ cổ hoài lang...

Trọng Nguyễn gắn bó thiết tha với Bạc Liêu nên ông chăm chút cho nhiều thế hệ văn nghệ sĩ của Bạc Liêu. Tôi còn nhớ, sau ngày Bạc Liêu tái lập, ông đã chủ trương in cho tôi tập sách Đạo gác cu miệt vườn, rồi ông trực tiếp soạn thảo các văn bản để giới thiệu tôi vào Hội Nhà văn Việt Nam. Khi trở thành nhà văn, tôi tự nói với lòng mình, ông là một người góp phần làm nên danh phận của tôi.

Tôi kính trọng ông còn bởi nhiều lý do khác, nếu xét ở góc độ soạn giả kịch bản sân khấu cải lương và vọng cổ, ông là cây đa, cây đề của Nam Bộ, của cả sân khấu Việt Nam.

Tôi kính trọng ông không chỉ vì tài mà còn vì đức độ nữa. Toàn bộ nghệ phẩm của ông đã cho ta biết đầy đủ về tư cách Trọng Nguyễn. Cà Mau là quê hương nuôi nấng ông lớn lên, tặng cho ông một tâm hồn; còn Bạc Liêu với vốn văn nghệ của mình đã nuôi dưỡng, chắp cánh cho Trọng Nguyễn bao nhiêu thì Trọng Nguyễn đáp lại, trả hết bằng những tác phẩm đong đầy tim óc. Những tác phẩm ấy đã góp phần làm sáng thêm, rạng rỡ thêm vùng đất Bạc Liêu - Cà Mau.

Trọng Nguyễn không phải là nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân vì người ta không xét loại hình này, nhưng Trọng Nguyễn xứng đáng được gọi là người con ưu tú của đất Bạc Liêu - Cà Mau.

Tết Ất Mùi, tôi viết đôi dòng về ông để tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và cũng bởi vì ông cũng chính là đoá hoa mùa xuân đã góp nhặt cho mùa xuân cuộc đời thêm lộng lẫy./.

Phan Trung Nghĩa

Tám Nhanh làm giàu

(CMO) Thực ra gọi ông là Tám Nhanh là theo thứ bên vợ, bà Tám Nhã (Trần Thị Nhã). Ông Tám Nhanh sinh năm 1963, là con duy nhất của Liệt sĩ Võ Văn Năm. Cha ông hy sinh khi bà Nguyễn Thị Dẽ đang mang thai ông.

Nét chấm phá từ bức tranh giảm nghèo

(CMO) Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,76%, vượt kế hoạch đề ra, tương đương với 687 hộ đã vươn lên thoát nghèo. Đời sống của người dân đang từng ngày khởi sắc, bức tranh kinh tế - xã hội huyện nhà có nhiều thay đổi. Năm nay, bà con huyện Ngọc Hiển đón cái Tết ấm no, sung túc hơn.

50 năm - vọng mãi bản anh hùng ca

(CMO) Tết này nữa là tròn 50 năm cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong khí thế hừng hực của cách mạng miền nam, ngày ấy quân và dân Cà Mau đã thấy hoà bình, thống nhất đang đến thật gần.

Năm mới thắng lợi mới

(CMO) Năm 2017, trong bối cảnh còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, song, với sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tỉnh nhà tiếp tục chuyển biến tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực. Đây là nỗ lực lớn, là tiền đề quan trọng để Cà Mau thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ của năm bản lề 2018.

Vững tâm bước vào năm mới

(CMO) Là tỉnh cách xa trung tâm chính trị, kinh tế của vùng và cả nước, điều kiện đi lại hết sức khó khăn; là "đứa con út chót" ở nơi cuối cùng Tổ quốc giữ gìn biên cương lãnh thổ nên Cà Mau được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước.

Cho ngày xuân bình yên

(CMO) Không khí xuân đã tràn ngập trên các nẻo đường, người người, nhà nhà nô nức xuống phố hoà vào lễ hội của mùa xuân. Hoà trong dòng người ngược xuôi, tấp nập là hình ảnh các lực lượng làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự. họ luôn căng mình, túc trực 24/24, giữ bình yên cho ngày xuân.

Trao nông dân cơ hội làm giàu

(CMO) Năm 2017, huyện Thới Bình mạnh dạn tổ chức và liên kết thực hiện nhiều mô hình sản xuất mới, cách làm hay mang lại hiệu quả thiết thực, được nhiều nông dân quan tâm áp dụng vào sản xuất đạt hiệu quả cao.

Chó "độc nhãn"

(CMO) Quê tôi, mùng Ba Tết là ngày mặc định ai có con "gửi" thầy cúng đều mang nhang, đèn, gà thả vườn đến vái lạy, thay tom. Nhà tôi hơn mười năm trở lại đây cũng được cái vinh hạnh gần giống vậy. Người nhờ vả, người đồn đại theo hướng tôn vinh nhưng sau trước gì cũng vẹn tình, quà cáp hoặc phong thư... Có điều, họ không "thần tượng" tôi mà là con chó “độc nhãn”.

Trên dòng kinh Tám Khệnh

(CMO) Dòng kinh Tám Khệnh hôm nay trong tiết trời se se lạnh bỗng trở nên nhộn nhịp lạ thường. Những chiếc ghe chở cá tươi nối đuôi nhau cập bến. Không cần đợi lệnh phân công của ông chủ, lần lượt nhóm thanh niên khuân vác cá lên bờ, còn nhân công làm thuê thì bắt tay vào công việc thường nhật: phân loại cá, làm cá, phơi cá. Tiếng trò chuyện, tiếng nói cười huyên náo cả một khúc sông.

Động lực giảm nghèo

(CMO) Đảng viên giúp đỡ hộ nghèo là việc làm không mới đối với huyện Phú Tân và trở thành một trong những tiêu chí đánh giá đảng viên, tổ chức Đảng hằng năm. Song, cái mới ở đây là sự phối hợp chặt chẽ thực hiện các giải pháp đồng bộ, từ đó, tạo động lực, niềm tin để hộ nghèo phấn đấu tự vươn lên, không trông chờ, ỷ lại.