Thứ tư, 3-9-25 18:24:08
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Từ Sông Ðốc các anh đi

Báo Cà Mau Vào khoảng cuối năm 1954, mấy chục căn nhà dọc theo sông Cái Bát (xã Tân Dân, huyện Ðầm Dơi ngày nay) đều có bộ đội đóng quân, riêng căn nhà 3 gian của tôi đủ chứa cả tiểu đội. Các anh di chuyển bằng những chiếc xuồng năm lá, từ Cần Thơ, Vĩnh Long... xuống. Chỉ ít hôm là các anh đi, về đâu tôi chẳng hề biết, chỉ để lại tình cảm quân - dân như cá với nước. Cho đến khi lớn lên, đi làm cách mạng, tôi mới biết Cà Mau là vùng tập kết 200 ngày, vậy là chắc các anh đi về Sông Ðốc để lên tàu tập kết ra Bắc.

Tượng đài Chuyến tàu tập kết ra Bắc được xây dựng tại thị trấn Sông Ðốc, nơi lưu dấu sự kiện tập kết ra Bắc cách nay 70 năm. Ảnh: HUỲNH LÂM

Tượng đài Chuyến tàu tập kết ra Bắc được xây dựng tại thị trấn Sông Ðốc, nơi lưu dấu sự kiện tập kết ra Bắc cách nay 70 năm. Ảnh: HUỲNH LÂM

Cho đến những năm 1960-1964, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, đường Trường Sơn được mở, cách mạng miền Nam đã trực tiếp đương đầu với đội quân nhà nghề của đế quốc Mỹ và một số chư hầu, là lúc các anh trở về với cái tên rất thơ: “Cán bộ mùa thu”. Ðôi dép râu, chiếc mũ tai bèo xuất hiện từ đó.

Cái tên “Cán bộ mùa thu” thì phải đi kèm với chân dung của nó. Phải thừa nhận, thời ấy, ngoài điểm tương đồng chung của người lính Cụ Hồ thì các anh có cái gì đó rất riêng, ngoài khẩu K54, vỏ bao màu da bò láng bóng. Các anh “Cán bộ mùa thu” thuộc khung từ đại đội trở lên, được Bác Hồ trực tiếp giáo dục, rèn luyện ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa nên là thần tượng của các cô gái lúc bấy giờ. Lăn lộn chiến đấu không bao lâu, các anh đã có nơi cập bến.

Từ Sông Ðốc các anh đi. Ông Trần Mười, 94 tuổi, ở ấp Xóm Lớn, xã Lý Văn Lâm (TP Cà Mau), đầu năm 1951 là chiến sĩ Tiểu đoàn 307, có mặt trong chuyến tàu đầu tiên rời bến Sông Ðốc. Ra Sầm Sơn, được đón tiếp nồng nhiệt, cờ hoa và khẩu hiệu. Vinh dự là những đứa con miền Nam đang có mặt trên đất Bắc, ông đã nhận được tình cảm thân thương như đứa con xa trở về. Ăn Tết năm 1955 xong, ổn định chỗ nơi, ông bắt tay vào học tập cải cách ruộng đất.

Ðầu năm 1960, ông cùng 3 đồng đội: Ðồng Văn Ðe, Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn Tấn Ðức được chọn học lái máy bay. Qua sàng lọc sức khoẻ, ông và Nguyễn Tấn Ðức bị loại; riêng ông, với lý do có một cái răng bị hư. Ông vinh dự 3 lần được gặp Bác Hồ.

Ðầu năm 1961, ông với quân hàm Thiếu uý, Ðại đội trưởng, Trung đoàn 1, trong đội hình Sư đoàn 338, xuất phát từ Xuân Mai - Hoà Bình, bắt đầu lần xuống Thanh Hoá, Quảng Bình vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Sau 3 tháng đơn vị đã có mặt ở miền Ðông. Mang trong mình chiến tích đánh tàu trên sông Nhị Nguyệt, diệt đồn Hộ Phòng - ánh thép sáng ngời của Trung đội Mã Tấu trong chống thực dân Pháp, năm 1964, ông cùng đồng đội đánh và thắng lớn trận Bình Giã. Trong trận này, ông bị thương gãy lìa ống xương tay phải; trải qua 5 lần hụt chết, ông được xếp thương binh hạng 3/4.

Từ Sông Ðốc các anh đi. Ông Ðặng Bá Chữ (Năm Chữ, sinh năm 1933), năm 1950 là chiến sĩ địa phương quân Long Mỹ - Cần Thơ. Năm 1958, ông là Trung đội trưởng, Trường Pháo binh; năm 1974 là Ðại uý, Tham mưu trưởng Ðoàn 962 (Quân khu 9), gắn liền với đường Hồ Chí Minh trên biển, với di tích lịch sử bến Vàm Lũng anh hùng. Năm 1979, ông là Tham mưu trưởng Tiền phương Minh Hải; năm 1982 là Trung tá, Phó tham mưu trưởng, Phòng Tham mưu Tỉnh đội Minh Hải; năm 1987, được phong hàm Ðại tá.

Từ Sông Ðốc các anh đi. Ông Ðặng Hùng Giỏi (1933-2016), quê ở Thăm Trơi (Trần Hợi - Trần Văn Thời). Năm 1953-1957, ông là chiến sĩ Ðại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 2, Sư đoàn 320; năm 1963 được chuyển ngành sang Xí nghiệp than Cửa Ông - Quảng Ninh. Ðặt chân vào lĩnh vực mới, chàng thanh niên Ðặng Hùng Giỏi luôn học tập, phấn đấu để xứng với cái tên Giỏi của mình, tỏ ra trách nhiệm và vinh dự khi mình là người miền Nam có mặt tại đây. Ngày hiệp thương Tổng tuyển cử đi qua, người thân thuộc, đồng bào miền Nam đang rên siết dưới chế độ độc tài Ngô Ðình Diệm. Chẳng những 2 ngón tay khi từ giã ngày đưa tiễn, nay cả bàn tay cũng chưa có ngày về.

Thương con trai miền Nam trên đất Bắc hiền hậu, lao động giỏi, xa nhà, bà mẹ nuôi của ông đã mai mối với chị Lương Thị Gái, cùng công tác chung ở xí nghiệp, nên duyên vợ chồng. Cửa Ông - Quảng Ninh gắn bó với ông bằng 2 đứa con trai được đặt tên là Giang, Sơn. Cuối năm 1976, ông được chuyển về Ty Xây dựng Minh Hải, đồng thời ngày 20/9/1976, bà Lương Thị Gái cũng được Bộ trưởng Ðiện và Than ký quyết định cho chuyển về Minh Hải theo chồng. Năm 1989, ông là Phó giám đốc Xí nghiệp Liên hiệp Xây dựng tỉnh Minh Hải.

Từ Sông Ðốc các anh đi. Ông Nguyễn Tường Nuôi (1932-2019), chiến sĩ Tiểu đoàn 307, quê ở Giao Vàm (Lợi An - Trần Văn Thời). Qua 70 năm, 2 quyển nhật ký đã rời ra từng trang, đôi chỗ chữ đã nhoà. Từ khi lên chiếc tàu Ác-khăng-ghen của Liên Xô (ngày 5/1/1955), đưa 2 ngón tay chào tạm biệt hẹn 2 năm trở lại đến khi về lại quê nhà với vai Phó ban Quân báo Tỉnh đội Cà Mau ngót 18 năm. Hai quyển nhật ký cũng được ghi chép liền mạch suốt 18 năm ấy - những chặng đường học tập, rèn luyện ở miền Bắc, sang đất Vạn Tượng giúp bạn Lào, vượt Trường Sơn trở về Nam, rồi qua đánh bọn Pôn Pốt ở Campuchia. Những ngày Bắc đêm Nam, ngày Lào đêm Hà Nội, ngày Campuchia đêm Cà Mau đã hiện lên trong từng nhịp thở của thời cuộc, trải lòng với những cảm xúc miên man, đã làm cho anh thêm rắn rỏi, trưởng thành qua từng trang nhật ký. Thấy như anh viết không chỉ dành riêng cho cái sự chơi tao nhã của mình mà cho cả những người lính của một quân đội anh hùng, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu. Ngày 5/10/2024, 2 quyển nhật ký đã được hiến tặng cho Bảo tàng tỉnh lưu giữ.

Một đời lính 40 năm trong quân ngũ, bước chân qua khắp chiến trường 3 nước Ðông Dương, đánh 35 trận cấp đại đội trở lên với 6 kẻ thù: thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, chư hầu Úc, nguỵ Sài Gòn, nguỵ Lào và Pôn Pốt Campuchia, ông được tặng thưởng 10 huân, huy chương các loại; là thương binh hạng 2/4.

Hàng vạn các anh, các chị từ Sông Ðốc ra đi, một số về với danh xưng “Cán bộ mùa thu” vượt Trường Sơn với phương châm “đi không dấu, nấu không khói”, số về trên con đường Trường Sơn, số về sau cánh cổng dinh Ðộc Lập bị hút đổ.

70 năm chuyến tàu tập kết ra Bắc, mỗi người trong cuộc đều có những kỷ niệm không thể phai mờ trong đời mình, nhiều người đã ngã xuống, yên nghỉ khắp mọi miền Tổ quốc. Ðất Bắc còn là quê hương thứ hai của nhiều chàng trai, cô gái ra đi trong những chuyến tàu ấy. Lịch sử đã để lại những cuộc chia ly và sum họp có một không hai trong cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.