Bài cuối: Những giải pháp để vùng Bắc Quốc lộ 1A phát triển
Bài 4: Khó khăn, thách thức ở vùng Bắc Quốc lộ 1A
Bài 3: Những mô hình sản xuất tiêu biểu vùng Bắc Quốc lộ 1A
Bài 2: Phát huy thế mạnh công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
>>Bài 1: Trù phú một nền nông nghiệp
Vượt qua khó khăn, thách thức, khơi dậy được tiềm năng, phát huy đúng lợi thế là những gì mà các địa phương vùng Bắc QL1A của tỉnh đang phấn đấu. Trong sự vươn lên đó, vùng Bắc của tỉnh cũng đã và đang đón nhận sự đóng góp, hiến kế tích cực của các nhà quản lý và các chuyên gia đến từ những viện, trường.
*Ông Phan Minh Quang. *Tiến sĩ Lương Trung Xô
* Ông Phan Minh Quang, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT:
Điều kiện mở rộng diện tích lúa - tôm ở vùng Bắc QL1A là rất lớn
Các công trình thủy lợi lớn nhằm ứng phó biến đổi khí hậu và nâng cao năng lực sản xuất ở vùng Bắc đã được Bộ NN&PTNT đưa vào quy hoạch. Theo tôi, vấn đề bức xúc hiện nay là Bộ cần sớm bố trí vốn xây dựng cống Cái Bé, Cái Lớn và âu thuyền Ninh Quới. Các công trình này vừa đáp ứng tốt nhu cầu điều tiết nước phục vụ nuôi tôm và cấp nước ngọt cho sản xuất lúa ở vùng Bắc. Nếu chậm xây dựng âu thuyền Ninh Quới để ngăn mặn vào huyện Ngã Năm (Sóc Trăng), vấn đề điều tiết nước mặn phục vụ nuôi tôm vùng Bắc sẽ còn gặp khó khăn lâu dài.
Sắp tới, khu vực chuyển đổi thuộc huyện Hồng Dân, Phước Long và Giá Rai cần được đầu tư các ô thủy lợi khép kín để mở rộng diện tích lúa - tôm và chủ động hơn trong sản xuất. Nếu có các ô thủy lợi, 6.000ha (thường xuyên thiếu mặn đầu vụ nuôi tôm) của huyện Hồng Dân sẽ có điều kiện nâng lên thành 2 vụ lúa - 1 vụ tôm hoặc 2 vụ tôm - 1 vụ lúa (hiện tại là 1 vụ tôm - 1 vụ lúa).
Tôi cũng đề nghị Trung ương hỗ trợ vùng Bắc xây dựng các trạm bơm điện vừa giúp nông dân giảm được chi phí bơm tát vừa lấy nước ngọt kịp thời phục vụ sản xuất từ 2 - 3 vụ lúa/năm ở khu vực giữ ngọt ổn định.
* Tiến sĩ Lương Trung Xô, Viện phó Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam:
Có ba vấn đề cần giải quyết
Cái khó ở vùng Bắc QL1A là thủy lợi phải đảm bảo sự phát triển cả tôm và lúa - hai môi trường đối nghịch nhau.
Theo tôi, để giải quyết vấn đề này, thứ nhất, Bộ NN&PTNT phải quy hoạch tổng thể ĐBSCL nhằm giải quyết tranh chấp đó. Thứ hai, Bộ phải đầu tư hệ thống cống ngăn mặn Nam Chắc Băng (hướng biển Tây, tiếp giáp Bạc Liêu, thuộc tỉnh Kiên Giang). Và để đạt được sản lượng 1 - 1,1 triệu tấn lúa, ở vùng này cần có hai kênh cấp nước ngọt từ Ngã Bảy (Hậu Giang) về cho vùng ngọt. Vấn đề thứ ba là nên có quy hoạch rõ ràng: vùng nào chuyên lúa, vùng nào lúa - tôm và vùng chuyên tôm kết hợp các loài thủy sản để thủy lợi dễ dàng phục vụ.
Mặt khác, một khi Bộ xây dựng xong các cống Cái Lớn, Cái Bé, hệ thống cống Nam Chắc Băng và hệ thống phân ranh mặn - ngọt (Bộ NN&PTNT đang đầu tư xây dựng) Bạc Liêu - Sóc Trăng thì vùng Bắc của tỉnh sẽ có thêm nguồn nước ngọt từ sông Cái Lớn, Cái Bé và nước mặn lấy từ biển Đông cũng rất dễ dàng, đảm bảo cho sự phát triển cả tôm và lúa.
*Ông Phan Văn Liêm. * PGS-TS Nguyễn Thanh Phương
* Ông Phan Văn Liêm, Giám đốc Trung tâm Giống nông nghiệp - thủy sản tỉnh:
Nếu chịu đầu tư, chắc chắn sẽ có giống lúa chịu mặn thương hiệu Bạc Liêu
Theo tôi, vùng sản xuất lúa ổn định (vùng ngọt hóa) của tỉnh đã có nhiều giống thích nghi, năng suất cao, chất lượng tốt. Sản xuất ở vùng này đang đi vào ổn định. Tuy nhiên ở vùng lúa - tôm đang rất cần các giống chịu mặn, năng suất cao và ổn định. Về lâu dài, tôi cho rằng, vấn đề chọn giống chịu mặn thương hiệu Bạc Liêu là cần thiết, bởi vì tiềm năng sản xuất ở vùng lúa - tôm còn rất lớn. Hiện tại, chúng tôi có đủ khả năng sử dụng nguồn gen tại chỗ để tạo giống chịu mặn ngắn ngày mà không phải mua từ nơi khác. Nhưng vấn đề là cơ sở vật chất chưa được đầu tư đúng tầm. Nếu được quan tâm đầu tư của tỉnh, tôi nghĩ, thời gian không lâu, chúng tôi sẽ tạo được giống lúa chịu mặn, năng suất cao và ổn định, mang thương hiệu của Bạc Liêu.
* PGS-TS Nguyễn Thanh Phương, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ:
Không nên nóng vội tăng sản lượng tôm ở vùng này
Năng suất tôm nuôi trên đất lúa ở vùng này thời gian qua khá thấp (dao động từ 120 - 150 kg/ha/vụ) và tỉnh đang có kế hoạch tăng năng suất (lên từ 300 - 350 kg/ha/vụ trở lên), sản lượng tôm ở vùng này để tương xứng với tiềm năng.
Song, theo tôi, chúng ta không nên nóng vội. Với kết quả như hiện nay là rất bền vững cho môi trường. Bởi vì muốn tăng năng suất, sản lượng thì phải mở rộng ao nuôi, làm ảnh hưởng diện tích sản xuất lúa. Mặt khác, nếu tôm nuôi quá dày thì dịch bệnh sẽ phát sinh phức tạp, làm ảnh hưởng môi trường sinh thái và sự ổn định vốn có của vùng này. Các vùng nuôi tôm công nghiệp hiện nay đang trả giá về vấn đề đó.
HỮU DUYÊN (thực hiện)
Dự thảo Nghị quyết phát triển vùng Bắc QL1A của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định mục tiêu: Đến năm 2015, diện tích sản xuất lúa ứng dụng công nghệ cao, theo quy trình VietGAP đạt quy mô 62.150ha (sản xuất 2 vụ/năm trở lên). Vùng sản xuất lúa trên đất nuôi tôm nâng lên 35.000ha vào năm 2015 (hiện tại là 30.000ha) và 40.000ha vào năm 2020. Xây dựng vùng sản xuất lúa giống chất lượng cao, sạch bệnh trong dân, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất trên địa bàn tỉnh. Phấn đấu đạt sản lượng 1 triệu tấn lúa vào năm 2015 và 1,1 triệu tấn vào năm 2020. Về phát triển nuôi trồng thủy sản, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 64.000ha. Trong đó, diện tích nuôi theo mô hình tôm - lúa (tôm sinh thái, tôm sạch) đạt 35.000ha vào năm 2015 và 40.000ha vào năm 2020. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản phấn đấu đạt 75.500 tấn vào năm 2015 và 81.500 tấn vào năm 2020. Hai đối tượng nuôi chính ở vùng này là tôm sú và tôm càng xanh. |