ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 19:54:04
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

5 đời giữ nghề rèn

Báo Cà Mau (CMO) Trong tất cả các nghề truyền thống tại Cà Mau, nghề rèn là một trong những nghề khá vất vả. Mặc dù hiện tại các phần việc đã có sự hỗ trợ của máy móc, thế nhưng, để làm ra một sản phẩm đẹp, bền, chắc, bắt buộc người thợ phải thường trực bên bếp lửa.

Nằm cạnh con sông Ðầm lúc vơi lúc đầy theo con nước ròng, nước lớn là nhà ông Nguyễn Văn Ðô (Khóm 5, thị trấn Ðầm Dơi, huyện Ðầm Dơi), một trong những thợ rèn có tiếng tại xứ Ðầm. Nhà không ngay lộ lớn, cửa tiệm chẳng biển hiệu quảng cáo, để đến được lò rèn của ông Ðô phải băng qua cây cầu ván chắp vá lắc lư. Chính nơi đây, nghề rèn đã tồn tại và duy trì suốt 5 thế hệ của gia đình ông.

Ký ức

Ông Nguyễn Văn Ðô (Út Ðô) năm nay đã 70 tuổi, có 5 người con (2 trai, 3 gái). Hai người con trai đều nối nghiệp ông, ngoài anh Nguyễn Văn Nghị (thứ 2) đang ở cùng ông kế thừa gia nghiệp, người con thứ 3 Nguyễn Tuấn Anh cũng đang mở lò rèn tại tỉnh Bình Dương. Ông Út Ðô tâm tình: “Tính tới đời con tôi nữa là 5 đời. Từ đời ông cố, ông nội, ba tôi, tôi, rồi đến con trai vẫn làm duy nhất chỗ này, làm trên bờ vậy chứ không có lò rèn trên sông”.

Nghề rèn sở dĩ duy trì được đến nay, bởi không phải vì muốn gìn giữ cái nghề của tổ tiên, mà còn vì nghề này “sống được”, nếu không nói là có phần dư dả. Ở thời của ông Út Ðô, nghề rèn đang trào thịnh hành, thậm chí là thời hoàng kim, ăn nên làm ra khi các dụng cụ lao động sản xuất, sinh hoạt... đều xuất xứ từ lò rèn.

Nghề rèn không kén sản phẩm, ai đặt gì làm đó, trong tất cả các loại nông cụ từ búa, phản, liềm, móc dừa... thì dao được làm nhiều nhất. Suốt quãng đời làm thợ, từ đôi bàn tay của Út Ðô không đếm xuể đã cho ra lò bao nhiêu con dao các loại từ yếm, phay, chét, chỉ nhớ rằng nhờ nó mà ông nuôi được vợ và các con, sắm sửa vật dụng trong nhà. “Mình làm lâu năm nên khách hàng quen hết, ở vùng sâu, vùng xa mấy xã khác vẫn chịu khó tìm đến, có khi đặt một cây dao mới, hay đơn thuần là mài lại bộ dao đã cùn ở nhà. Cây dao thời tôi mần có mười mấy ngàn đồng thôi, cây phản thì hơn 100.000 đồng, tính ra giá thời đó cỡ 10 giạ lúa. Làm từ sáng tới chiều được 800.000-900.000 đồng, 1 năm nếu biết tích góp thì dư được 2 cây vàng”, ông Ðô nhẩm tính.

Hiện nay, nhiều nghề truyền thống dần mai một và nghề rèn cũng vậy. Có người không chịu được sự nhọc nhằn, có người không có thế hệ tiếp nối, lại có người bỏ dở nghề để chuyển sang nghề mới trải nghiệm. Nhưng đối với lò rèn Út Ðô, điều để ông duy trì đến nay là nhờ vào “còn người chuộng thì còn làm”, chỉ đơn giản thế thôi.

Khâu nung thép đòi hỏi người thợ phải chịu được độ nóng bức.

Giữ nghiệp

Ðối với anh Nguyễn Hữu Nghị, nghề rèn quá thân thương, ngay từ nhỏ, khi bắt đầu ý thức được thì tiếng chan chát có phần đinh tai, hay hơi lửa nóng phà ra mỗi khi nung sắt thép đã in sâu vào tâm trí tuổi thơ của anh đến khi trưởng thành.

Anh Nghị đến với nghề rèn tự nhiên như đứa trẻ lớn lên tự khắc biết nói, biết đi. Anh chia sẻ: “Cách truyền nghề của gia đình tôi không giống những gia đình khác, tức là không cầm tay chỉ việc, các con trong cuộc sống hàng ngày, ăn ở, sinh hoạt thấy cha làm thì làm theo, học như không học, cứ y vậy mà truyền nghề đến ngày nay, đời cha nghỉ thì đến đời con vô làm là được hết”.

Nhờ những lời răn dạy của cha, đặt cái tâm sống với nghề, cùng sự tỉ mỉ trong các công đoạn nên lò rèn truyền thống nhiều đời của gia đình không những không bị mai một mà ngày càng được nhiều người biết đến. Tay nghề vững, cộng thêm nghề rèn dần bó hẹp nên các sản phẩm làm ra được khách từ nhiều nơi tìm đến đặt hàng, tạo nguồn thu tương đối ổn định. Nghề này chủ yếu là lấy công làm lời, nên trừ hết mọi chi phí, anh Nghị cũng kiếm được từ 300.000-500.000 đồng mỗi ngày.

Dao các loại được rèn, bày bán sẵn tại lò rèn.

Theo dòng chảy của thời gian, nghề nào cũng vậy, phải có thay đổi mới, nhất là đối với những ngành cơ khí khi sự ra đời của máy móc đã giảm thiểu sức người và thời gian. Theo đó, nghề rèn cũng thay đổi, không khó bắt gặp những cỗ máy lớn có mặt ở những lò rèn thủ công, do đó dù công việc lò rèn thời hiện đại tuy nhọc nhằn nhưng vẫn có cái sướng. Sướng ở đây không chỉ là công việc nhẹ nhàng, nhanh chóng hơn, mà nhân công chỉ cần 2 người hợp sức là đủ. Cho nên, trong thời buổi kinh tế thị trường, việc tiết kiệm được kinh phí thuê mướn lao động cũng là cách để duy trì nghề. “Có máy móc, số lượng sản phẩm làm ra tăng lên, nhẹ công hơn. Khâu trui thép là quan trọng nhất, lúc trước còn làm thủ công, chỉ mỗi khâu đập cũng mất nửa tiếng, giờ chỉ 15 phút là được”, anh Nghị cho biết.

Ông Phan Hữu Trí (xã Thanh Tùng, huyện Ðầm Dơi) cho biết: “Tôi xài đồ rèn mấy chục năm rồi, không cố định, khi nào cần rèn cây búa, hay gom mớ dao trong nhà đi làm mới cho bén lại, thì tôi tìm kiếm. Ưa nhất là độ bền của dao rèn, xài bao năm dù bị mẻ, mỏng hay gỉ sét, nhưng cứ mài nhẵn nhụi là có thể xài êm tay như dao mới”.

Ðối với lớp người đi trước như thế hệ ông Ðô, nghề rèn hiện nay khác trước nhiều lắm. Ông Ðô chậm rãi: "Tôi tự hào vì đến đời con vẫn duy trì, giữ được cái nghề ông bà để lại. Tâm đắc với nghề, sung sướng vì truyền được nghề cho con, ít nhất là con vẫn làm chủ mà không cần đi xa, rời quê đi mần thuê, vui là vui vậy thôi”.

Không chỉ ông Ðô, mà cùng thế hệ với ông còn có các anh thứ 3, thứ 4, thứ 9 của ông kế tục nghề. Ðến nay, dù các anh đã khuất nhưng nghề rèn vẫn được các cháu ông ngày đêm tiếp lửa tại Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng và Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Và đâu đó, nghề rèn không chỉ được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác mà còn mở rộng địa bàn, đưa những sản phẩm thủ công đi khắp nơi, được bà con tin dùng./.

 

Yến Nhi

 

Phụ nữ đồng hành phát triển kinh tế tập thể

Thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới”, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập, phát triển, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) xã Ngọc Chánh, huyện Ðầm Dơi đã đồng hành cùng hội viên phụ nữ cơ sở, khẳng định vai trò, vị thế của mình trong cuộc sống. Trong đó, mô hình kinh tế tập thể do phụ nữ làm chủ đã hình thành và không ngừng mở rộng, phát triển thời gian qua, góp phần khơi dậy tiềm năng, tạo cơ hội để chị em mở rộng quy mô, nâng cao năng suất, tăng thu nhập cho gia đình.

Tìm giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh

Phát biểu khai mạc Hội nghị kết nối xúc tiến thương mại sản phẩm nông, thuỷ sản và các sản phẩm OCOP tỉnh Cà Mau năm 2024, tổ chức ngày 15/11, bà Phan Thị Thắng, Thứ trưởng Bộ Công Thương, khẳng định: Hội nghị là cơ hội để các doanh nghiệp kinh doanh nông, thuỷ sản xuất khẩu tỉnh Cà Mau khám phá tiềm năng và dư địa của các nước trong khu vực và trên thế giới, là dịp để các doanh nghiệp, nắm bắt thông tin về các tiêu chuẩn, quy định thị trường nhập khẩu, từ đó tìm ra giải pháp cụ thể để thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Đồng thời, doanh nghiệp nước ngoài cũng sẽ được tiếp cận, đánh giá năng lực sản xuất và cung ứng của các doanh nghiệp tỉnh Cà Mau cũng như tiềm năng và lợi thế của tỉnh”.

Chia sẻ mô hình tôm sú - lúa đạt chứng nhận ASC GROUP

Nằm trong các hoạt động kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024), chiều 12/11, UBND huyện Thới Bình phối hợp với Công ty TNHH Xã hội Tôm chứng nhận Minh Phú tổ chức Hội nghị tổng kết và chia sẻ mô hình tôm - lúa gắn với Lễ công bố trao chứng nhận ASC GROUP và trao giấy chứng nhận sản phẩm OCOP trên địa bàn huyện Thới Bình.

Sẽ đóng mới 2 tàu kiểm ngư

“Khu bảo tồn biển rộng và trải dài từ Đông sang Tây trên vùng ngư trường trọng điểm của quốc gia, theo đó cần trang bị phương tiện hiện đại phục vụ công tác tuần tra, quản lý. Theo đó, trong kế hoạch sẽ đóng mới 2 tàu kiểm ngư thực hiện công tác thực thi pháp luật trên biển với mỗi tàu có chiều dài 26 m, rộng 6,25 m, vận tốc lớn nhất (đầy tải) đạt 25 hải lý/giờ”, ông Nguyễn Việt Triều, Phó chi cục trưởng phụ trách Chi cục Kiểm ngư tỉnh, thông tin về Kế hoạch quản lý Khu bảo tồn biển tỉnh Cà Mau giai đoạn 2025-2030 vừa được UBND tỉnh phê duyệt.

Ðề án 1 triệu héc-ta lúa hiệu quả tích cực bước đầu

Theo kế hoạch thực hiện Ðề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” (Ðề án), trên địa bàn tỉnh hình thành các vùng chuyên canh sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp khoảng 25.000 ha. Các vùng chuyên canh này được tổ chức hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính.

Giữ nghề truyền thống

Nghề làm lờ, lọp ở huyện Trần Văn Thời được hình thành từ rất lâu. Theo thời gian, số hộ làm nghề ngày một ít đi và đang đứng trước nguy cơ mai một. Tuy nhiên, hiện tại một số người vẫn quyết tâm duy trì, với mong muốn giữ nghề truyền thống ông cha đã để lại và tiếp tục lưu truyền cho các thế hệ con cháu sau này.

Ðừng để hoang phí đất

Giảm nghèo là một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân là mục tiêu được hướng đến. Thế nhưng, thực tế hiện nay, một bộ phận không nhỏ người dân tư duy sản xuất, cách sống chậm chuyển biến, dẫn đến không thể thoát khỏi cái nghèo. Trong nhiều trường hợp khó khăn ấy, qua khảo sát thực tế, có trường hợp vẫn sở hữu tư liệu sản xuất (dù ít), có đất vườn (khu vực nông thôn), nhưng quỹ đất này chưa phát huy hiệu quả.

Vào vụ màu Tết

Chưa đầy 3 tháng nữa là đến tết Nguyên đán 2025, ngay từ đầu tháng 11, nông dân trên địa bàn các xã Khánh Bình Tây, Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời đã tích cực làm đất, ươm hạt, chăm sóc vụ rau màu, đặc biệt tập trung vào sản xuất các mặt hàng nông sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân dịp Tết.

Tập trung sản xuất lúa đông xuân

Những ngày này, nông dân trong tỉnh đang tập trung sản xuất vụ lúa đông xuân 2024-2025. Ðây là vụ lúa quan trọng nhất trong năm, bởi ngoài thời tiết thuận lợi, lúa đạt năng suất thì giá lúa cũng cao hơn so với vụ hè thu.

Hỗ trợ nông dân kết nối, tiêu thụ sản phẩm trên sàn thương mại điện tử

Chiều 1/11, Hội Nông dân tỉnh và Công ty Cổ phần Giải pháp Công nghệ Felix tổ chức lễ ký kết hợp tác hỗ trợ hội viên, hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp nông dân lên sàn Thương mại điện tử Nông sản B2B (Felix.store), kết nối giao thương, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.