ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 20-4-25 04:33:37
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

5 đời giữ nghề rèn

Báo Cà Mau (CMO) Trong tất cả các nghề truyền thống tại Cà Mau, nghề rèn là một trong những nghề khá vất vả. Mặc dù hiện tại các phần việc đã có sự hỗ trợ của máy móc, thế nhưng, để làm ra một sản phẩm đẹp, bền, chắc, bắt buộc người thợ phải thường trực bên bếp lửa.

Nằm cạnh con sông Ðầm lúc vơi lúc đầy theo con nước ròng, nước lớn là nhà ông Nguyễn Văn Ðô (Khóm 5, thị trấn Ðầm Dơi, huyện Ðầm Dơi), một trong những thợ rèn có tiếng tại xứ Ðầm. Nhà không ngay lộ lớn, cửa tiệm chẳng biển hiệu quảng cáo, để đến được lò rèn của ông Ðô phải băng qua cây cầu ván chắp vá lắc lư. Chính nơi đây, nghề rèn đã tồn tại và duy trì suốt 5 thế hệ của gia đình ông.

Ký ức

Ông Nguyễn Văn Ðô (Út Ðô) năm nay đã 70 tuổi, có 5 người con (2 trai, 3 gái). Hai người con trai đều nối nghiệp ông, ngoài anh Nguyễn Văn Nghị (thứ 2) đang ở cùng ông kế thừa gia nghiệp, người con thứ 3 Nguyễn Tuấn Anh cũng đang mở lò rèn tại tỉnh Bình Dương. Ông Út Ðô tâm tình: “Tính tới đời con tôi nữa là 5 đời. Từ đời ông cố, ông nội, ba tôi, tôi, rồi đến con trai vẫn làm duy nhất chỗ này, làm trên bờ vậy chứ không có lò rèn trên sông”.

Nghề rèn sở dĩ duy trì được đến nay, bởi không phải vì muốn gìn giữ cái nghề của tổ tiên, mà còn vì nghề này “sống được”, nếu không nói là có phần dư dả. Ở thời của ông Út Ðô, nghề rèn đang trào thịnh hành, thậm chí là thời hoàng kim, ăn nên làm ra khi các dụng cụ lao động sản xuất, sinh hoạt... đều xuất xứ từ lò rèn.

Nghề rèn không kén sản phẩm, ai đặt gì làm đó, trong tất cả các loại nông cụ từ búa, phản, liềm, móc dừa... thì dao được làm nhiều nhất. Suốt quãng đời làm thợ, từ đôi bàn tay của Út Ðô không đếm xuể đã cho ra lò bao nhiêu con dao các loại từ yếm, phay, chét, chỉ nhớ rằng nhờ nó mà ông nuôi được vợ và các con, sắm sửa vật dụng trong nhà. “Mình làm lâu năm nên khách hàng quen hết, ở vùng sâu, vùng xa mấy xã khác vẫn chịu khó tìm đến, có khi đặt một cây dao mới, hay đơn thuần là mài lại bộ dao đã cùn ở nhà. Cây dao thời tôi mần có mười mấy ngàn đồng thôi, cây phản thì hơn 100.000 đồng, tính ra giá thời đó cỡ 10 giạ lúa. Làm từ sáng tới chiều được 800.000-900.000 đồng, 1 năm nếu biết tích góp thì dư được 2 cây vàng”, ông Ðô nhẩm tính.

Hiện nay, nhiều nghề truyền thống dần mai một và nghề rèn cũng vậy. Có người không chịu được sự nhọc nhằn, có người không có thế hệ tiếp nối, lại có người bỏ dở nghề để chuyển sang nghề mới trải nghiệm. Nhưng đối với lò rèn Út Ðô, điều để ông duy trì đến nay là nhờ vào “còn người chuộng thì còn làm”, chỉ đơn giản thế thôi.

Khâu nung thép đòi hỏi người thợ phải chịu được độ nóng bức.

Giữ nghiệp

Ðối với anh Nguyễn Hữu Nghị, nghề rèn quá thân thương, ngay từ nhỏ, khi bắt đầu ý thức được thì tiếng chan chát có phần đinh tai, hay hơi lửa nóng phà ra mỗi khi nung sắt thép đã in sâu vào tâm trí tuổi thơ của anh đến khi trưởng thành.

Anh Nghị đến với nghề rèn tự nhiên như đứa trẻ lớn lên tự khắc biết nói, biết đi. Anh chia sẻ: “Cách truyền nghề của gia đình tôi không giống những gia đình khác, tức là không cầm tay chỉ việc, các con trong cuộc sống hàng ngày, ăn ở, sinh hoạt thấy cha làm thì làm theo, học như không học, cứ y vậy mà truyền nghề đến ngày nay, đời cha nghỉ thì đến đời con vô làm là được hết”.

Nhờ những lời răn dạy của cha, đặt cái tâm sống với nghề, cùng sự tỉ mỉ trong các công đoạn nên lò rèn truyền thống nhiều đời của gia đình không những không bị mai một mà ngày càng được nhiều người biết đến. Tay nghề vững, cộng thêm nghề rèn dần bó hẹp nên các sản phẩm làm ra được khách từ nhiều nơi tìm đến đặt hàng, tạo nguồn thu tương đối ổn định. Nghề này chủ yếu là lấy công làm lời, nên trừ hết mọi chi phí, anh Nghị cũng kiếm được từ 300.000-500.000 đồng mỗi ngày.

Dao các loại được rèn, bày bán sẵn tại lò rèn.

Theo dòng chảy của thời gian, nghề nào cũng vậy, phải có thay đổi mới, nhất là đối với những ngành cơ khí khi sự ra đời của máy móc đã giảm thiểu sức người và thời gian. Theo đó, nghề rèn cũng thay đổi, không khó bắt gặp những cỗ máy lớn có mặt ở những lò rèn thủ công, do đó dù công việc lò rèn thời hiện đại tuy nhọc nhằn nhưng vẫn có cái sướng. Sướng ở đây không chỉ là công việc nhẹ nhàng, nhanh chóng hơn, mà nhân công chỉ cần 2 người hợp sức là đủ. Cho nên, trong thời buổi kinh tế thị trường, việc tiết kiệm được kinh phí thuê mướn lao động cũng là cách để duy trì nghề. “Có máy móc, số lượng sản phẩm làm ra tăng lên, nhẹ công hơn. Khâu trui thép là quan trọng nhất, lúc trước còn làm thủ công, chỉ mỗi khâu đập cũng mất nửa tiếng, giờ chỉ 15 phút là được”, anh Nghị cho biết.

Ông Phan Hữu Trí (xã Thanh Tùng, huyện Ðầm Dơi) cho biết: “Tôi xài đồ rèn mấy chục năm rồi, không cố định, khi nào cần rèn cây búa, hay gom mớ dao trong nhà đi làm mới cho bén lại, thì tôi tìm kiếm. Ưa nhất là độ bền của dao rèn, xài bao năm dù bị mẻ, mỏng hay gỉ sét, nhưng cứ mài nhẵn nhụi là có thể xài êm tay như dao mới”.

Ðối với lớp người đi trước như thế hệ ông Ðô, nghề rèn hiện nay khác trước nhiều lắm. Ông Ðô chậm rãi: "Tôi tự hào vì đến đời con vẫn duy trì, giữ được cái nghề ông bà để lại. Tâm đắc với nghề, sung sướng vì truyền được nghề cho con, ít nhất là con vẫn làm chủ mà không cần đi xa, rời quê đi mần thuê, vui là vui vậy thôi”.

Không chỉ ông Ðô, mà cùng thế hệ với ông còn có các anh thứ 3, thứ 4, thứ 9 của ông kế tục nghề. Ðến nay, dù các anh đã khuất nhưng nghề rèn vẫn được các cháu ông ngày đêm tiếp lửa tại Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng và Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Và đâu đó, nghề rèn không chỉ được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác mà còn mở rộng địa bàn, đưa những sản phẩm thủ công đi khắp nơi, được bà con tin dùng./.

 

Yến Nhi

 

Liên kết hữu ích
  • Chuyên phân phối Inverter Dolin chính hãng
Công ty mua phế liệu inox giá cao

Tạo điều kiện để đồng bào phát triển đời sống tốt hơn

Cùng với sự quan tâm, hỗ trợ của cấp trên, thời gian qua, các cấp uỷ đảng, chính quyền huyện Trần Văn Thời dành sự quan tâm đặc biệt chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn, cũng như tạo điều kiện cho đồng bào giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp và làm đa dạng, phong phú bản sắc văn hoá các dân tộc anh em.

Cựu chiến binh Ngô Văn Xuyên gương mẫu phát triển kinh tế

Không trông chờ, ỷ lại vào các chế độ, chính sách của Nhà nước và sự trợ giúp của địa phương, với bản chất của anh Bộ đội Cụ Hồ, cựu chiến binh Ngô Văn Xuyên (72 tuổi, Ấp 2, xã Tắc Vân) luôn siêng năng, cần cù, tích cực trong lao động, thực hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả để tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình.

Chuẩn bị xuống giống vụ lúa hè thu

Hiện nay, nông dân huyện Trần Văn Thời đang tập trung làm đất, chuẩn bị sẵn sàng lúa giống và các loại vật tư nông nghiệp, chờ đến lịch mùa vụ sẽ tiến hành xuống giống vụ lúa hè thu.

Gỡ khó, tạo đột phá cho kinh tế lâm nghiệp

Thời gian qua, rừng và đất lâm nghiệp không chỉ góp phần tạo việc làm, cải thiện sinh kế, giảm nghèo, mà còn mang lại giá trị trong nghiên cứu khoa học, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế lâm nghiệp vẫn chưa được phát huy xứng tầm với tiềm năng, do vẫn còn những điểm nghẽn.

Mùa chụp đìa

Vào mùa hạn, khi những cánh đồng nhấp nhô rơm rạ, các con kênh khô nước cũng là lúc vào mùa chụp đìa. Ở xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, mùa này là lúc bà con nô nức cùng nhau vần công để chụp đìa, chia cá. Dân ở xứ cá đồng cũng vui lây vì có thêm thu nhập lúc nông nhàn.

Hợp tác xã “Cây ăn trái sạch Khánh Hưng” hướng đến môi trường kinh doanh điện tử

Ðược thành lập và đi vào hoạt động hơn 5 năm qua, Hợp tác xã (HTX) "Cây ăn trái sạch Khánh Hưng", xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng. Ðặc biệt, HTX đang hướng đến môi trường kinh doanh điện tử, nhằm quảng bá sản phẩm và bắt nhịp với quá trình chuyển đổi số.

Sản xuất con giống - Phát triển nghề nuôi thuỷ sản

Giống thuỷ sản là đối tượng phục vụ nghề nuôi thuỷ sản, giúp tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, thời gian qua, do môi trường nước ô nhiễm cùng với việc khai thác, đánh bắt theo cách huỷ diệt đã làm cho giống loài thuỷ sản ở môi trường tự nhiên gần như cạn kiệt.

Triển vọng nuôi cá tra thương phẩm

Hiện nay, nhiều hộ ở vùng ven TP Cà Mau thực hiện mô hình nuôi cá tra khá hiệu quả, mang lại nguồn thu nhập ổn định. Khác với quy mô công nghiệp như ở các tỉnh trong khu vực, mô hình nuôi cá tra ở đây khá đơn giản, ít tốn chi phí, được xem là hướng đi triển vọng cho nông dân.

Ðổi mới để nuôi tôm hiệu quả

Ðầm Dơi là huyện có diện tích nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất tỉnh với hơn 62.000 ha, tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động nên đã ảnh hưởng đến sản xuất của người dân. Vì vậy, thời gian qua, nông dân trong huyện đã đổi mới, sáng tạo và thành công với nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, trong đó có không ít mô hình là sáng kiến mới, cách làm hay, đã và đang được huyện nhân rộng.

Tạo động lực bứt phá cho ngành tôm

Ngành tôm - ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp tục giữ vai trò chủ lực đóng góp cho phát triển kinh tế tỉnh, đóng góp 49% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2024, ước đạt 7.476 tỷ đồng. Không chỉ mang lại nguồn thu lớn, góp phần đưa Cà Mau vươn tầm trên bản đồ thuỷ sản Việt Nam và thế giới, ngành tôm còn tạo sinh kế bền vững cho hàng trăm ngàn hộ dân, thúc đẩy mô hình hợp tác, liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ.