ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 31-7-25 04:26:43
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bí thư Khu uỷ Khu 9 Võ Văn Kiệt - Bản lĩnh, tài năng kiệt xuất

Báo Cà Mau Chủ trương đánh trả bọn nguỵ quyền Sài Gòn cố tình phá hoại Hiệp định Paris và thực hiện âm mưu “tràn ngập lãnh thổ”… là sự cống hiến to lớn của Khu uỷ Khu 9, của quân dân miền Tây Nam Bộ, mà người đứng đầu, khởi xướng là Bí thư Khu uỷ Khu 9 Võ Văn Kiệt

Hiệp định Paris ký kết ngày 27/1/1973 và có hiệu lực thi hành ngày 28/1/1973 “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Quân đội Mỹ rút về nước, nhưng Tổng thống Mỹ Nixon dùng lời “đanh thép” và “hoa mỹ” cam kết với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, rằng: “Nếu Hà Nội sai lời ký kết, tôi sẽ có hành động trả đũa mau lẹ và tức khắc”.

Ðể khẳng định lời cam kết của mình, làm cho Thiệu yên lòng, Tổng thống Nixon gởi cho Tổng thống Thiệu nhiều mật thư. Ðồng thời “đồng minh Hoa Kỳ” tái viện trợ cho “Việt Nam cộng hoà” rất nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh”. Nhưng Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, nội dung Hiệp định Paris vô cùng bất lợi cho chúng và có cảm nhận rằng Mỹ rút quân là sự bỏ rơi chúng, không tin lời cam kết miễn cưỡng và sự viện trợ vũ khí… cầm chừng của Tổng thống Nixon.

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong lần về thăm và làm việc tại Cà Mau.   Ảnh: THANH QUANG

Hiệp định Paris ký kết chưa ráo mực, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: Không thi hành Hiệp định Paris, không hoà bình, không hoà hợp, không ngồi chung với cộng sản, tiếp tục chiến tranh. Song song đó, Thiệu tiến hành kế hoạch bình định… Kế hoạch này Thiệu chia làm ba bước: Bước một lấn chiếm cho được địa bàn Chương Thiện; bước hai lấn chiếm U Minh; bước ba bình định địa bàn phía Nam Cà Mau… Thực hiện kế hoạch này, Thiệu bổ sung cho Vùng IV chiến thuật (Cần Thơ) 200.000 quân (riêng địa bàn Chương Thiện 42 tiểu đoàn), chưa kể các sắc quân ở đồn bót kềm kẹp cơ sở. Thiệu chủ trương đánh nhanh, cấp tốc đánh phá địa hình, xây dựng đồn bót, ấp chiến lược, bủa lưới chính quyền, mật thám… như mạng nhện, ồ ạt chiếm đất, giành dân…

*

Ngày 28/1/1973, Bí thư Khu 9 Võ Văn Kiệt đến địa bàn Cần Thơ nghe Thành uỷ Cần Thơ báo cáo tình hình và đến thăm ở với một trung đoàn chủ lực 2 ngày trên địa bàn này, chứng kiến hành động phá hoại Hiệp định Paris của chính quyền Thiệu.

Ngày 30/1/1973, Bí thư Khu uỷ Võ Văn Kiệt triệu tập cuộc họp Thường vụ Khu uỷ bất thường và ngày 2/2/1973, Thường vụ Khu uỷ triệu tập cuộc họp Khu uỷ mở rộng. Cuộc họp này hoàn toàn nhất trí với nhận định của Thường vụ Khu uỷ, của Bí thư Khu uỷ Võ Văn Kiệt: Hiệp định Paris là thắng lợi to lớn của quân dân cách mạng. Mỹ - Thiệu thua đã rõ ràng nhưng vẫn ngoan cố phá hoại hiệp định, củng cố quyền lực ở miền Nam. Cách mạng phải chặn ngay bàn tay phá hoại của đối phương. Cần dựa vào pháp lý của hiệp định, vận dụng phương châm, phương pháp đấu tranh thích hợp ở từng vùng, giữ thế chính nghĩa của cách mạng. Quân đội Sài Gòn tuy hung hăng nhưng thế đã khác trước, theo Hiệp định Paris, quân Mỹ đã phải chấp nhận rút quân, binh lính nguỵ hoang mang phân hoá. Cần đẩy mạnh 3 mũi giáp công, giữ vững và mở rộng quyền làm chủ ở khắp các vùng giải phóng và vùng tranh chấp.

Tuy nhiên, khi Hiệp định Paris ký kết, trong đội ngũ cách mạng đã có không ít cán bộ các cấp đã có sự diễn biến phức tạp. Có một bộ phận cán bộ tin vào hiệp định, tin vào hoà bình lập lại, phải tranh thủ thời cơ bồi dưỡng quân đội và Nhân dân, khôi phục kinh tế, bồi dưỡng lực lượng, chờ thời cơ giành thắng lợi, giải phóng miền Nam. Một bộ phận cán bộ khác nảy sinh tâm lý mệt mỏi, muốn nghỉ ngơi… Trong khi đó, Trung ương cử phái đoàn vào Nam chỉ đạo giữ vững các giới tuyến hiện tại… Trước những biểu hiện đó khiến tình hình cách mạng ở miền Tây Nam Bộ diễn biến càng phức tạp và căng thẳng.

Trong khi đó, chính quyền Thiệu ngày đêm đưa quân đánh phá vùng nông thôn giải phóng, vùng căn cứ, chiếm đất, giành dân với âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” đầy tham vọng điên cuồng.

Xin đọc một đoạn do Bí thư Khu uỷ Khu 9 Võ Văn Kiệt, kể: “Tôi làm Bí thư Khu uỷ Khu 9 mà Trung ương Cục cử tôi đi thanh tra Khu 8. Gặp anh Sáu Bưởi, Bí thư Khu uỷ Khu 8, anh phê bình tôi rằng: “Anh làm sai chỉ thị của Trung ương, vi phạm Hiệp định Paris”. Tôi cự luôn anh ấy: “Thế nào là sai chỉ thị? Tinh thần của chỉ thị là thế nào? Tôi đưa ra chủ trương là phổ biến trong toàn Khu uỷ và triệu tập từ cấp tỉnh uỷ viên lên Cần Thơ… Chỉ thị cao nhất, mệnh lệnh cao nhất là giữ đất, giữ dân. Kỷ luật nặng nhất là để mất đất, mất dân. Chủ trương của chúng tôi là giữ đất, giữ dân và mở rộng địa bàn". Anh Sáu Bưởi cho rằng tôi làm như thế là vi phạm lệnh của Trung ương. Tôi nói: Lệnh của Trung ương là gì? Trung ương có chủ trương cho chúng ta để mất đất, mất dân không? Giữ đất, giữ dân và mở rộng địa bàn có phải là chủ trương của Trung ương không? Tôi làm như vậy là đúng hay sai với Trung ương? Tôi chịu trách nhiệm với thực tế ở đây. Nhưng nếu ta để mất đất, mất dân thì chúng ta có tội với Trung ương, có tội với đất nước. Chỉ thị của Trung ương là chỉ thị chung, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể để thực hiện tư tưởng lớn là phát triển cách mạng thì đó là nghiêm chỉnh thực hiện tư tưởng của Trung ương”.

Lúc bấy giờ trong đội ngũ cán bộ tư tưởng có xu hướng phát triển mạnh hơn là thoả mãn với “hoà bình”, cầu an… trong khi đó có phái đoàn của Trung ương và chỉ thị của Trung ương Cục chỉ đạo nắm vững và thực hiện khẩu hiệu trung tâm: “Hoà bình, độc lập, dân chủ, cơm áo, hoà hợp dân tộc…”. Tuy nhiên, tình hình miền Tây Nam Bộ khác với các vùng, miền khác ở miền Nam. Do hầu hết các nơi trong miền đều nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Paris: đóng quân tại chỗ không chống trả âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của đối phương, để cho chính quyền Thiệu rảnh tay xua quân đến miền Tây Nam Bộ “tràn ngập lãnh thổ”, ráo riết mở rộng vùng tạm chiếm, cố biến miền Tây Nam Bộ thành vùng kinh tế quan trọng, chúng chuẩn bị cho những cuộc quyết chiến với cách mạng trong tương lai. Binh đông, tướng mạnh, phương tiện vũ khí tối tân, đối phương mỗi lúc tăng thêm sức ép, gây ra rất nhiều khó khăn cho Ðảng bộ và quân, dân miền Tây Nam Bộ. Vấn đề cấp bách và cực kỳ nghiêm trọng là nếu chúng ta không đánh trả thì mất hết đất, mất hết dân, cách mạng sẽ không còn chỗ đứng chân…

Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, may mắn xuất hiện người có trách nhiệm cao nhất của Khu 9 - miền Tây Nam Bộ: Bí thư Khu uỷ Khu 9 Võ Văn Kiệt và Tư lệnh Quân khu 9 Lê Ðức Anh. Các đồng chí đề ra chủ trương và ra lệnh cho toàn miền Tây đánh giặc, đập tan âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của nguỵ quyền Sài Gòn, giành đất, giành dân, mở rộng địa bàn cho cách mạng. Ðể giải toả tư tưởng đánh địch như thế có sai chỉ thị của Trung ương không? Bí thư Khu uỷ Võ Văn Kiệt và Tư lệnh Quân khu lập luận rằng: “Tướng ngoài biên có quyền quyết định kịp thời, thi hành trước, báo cáo sau” và Khu uỷ chủ trương: xuất phát từ lợi ích cách mạng của Nhân dân, không chỉ một chiều thi hành hiệp định mà phải kiên quyết đánh trả tích cực, đẩy đối phương khỏi vùng lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng.

Bảo vệ quan điểm “đánh trả” âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn, của Bí thư Khu 9 Võ Văn Kiệt, của Ban Thường vụ, của Khu uỷ Khu 9… là việc làm rất trọng đại mà chưa có tiền lệ là việc làm dũng cảm, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm trước Ðảng, trước Trung ương và trước Nhân dân. Sự quyết đoán thể hiện một bản lĩnh tuyệt vời và một tài năng kiệt xuất.

Bí thư Khu uỷ Khu 9 Võ Văn Kiệt kể: “Vào giữa năm 1973, tôi được triệu tập ra Hà Nội họp để tham gia ý kiến về những giải pháp đối với miền Nam lúc đó. Tại Bộ Tổng Tham mưu, tôi thấy các tướng tá rất nhiều, ăn mặc nghiêm chỉnh lắm, nhưng anh em chưa kịp nắm bắt thông tin thực tế ở miền Tây, những biện pháp của chúng tôi ở miền Tây mấy tháng qua và những kinh nghiệm sát sườn của quân dân ở đây. Một vị tướng hỏi tôi: “…nhưng cứ đánh trả thì các anh có giữ được không?”. Tôi trả lời: Giữ hay không giữ là cả miền Nam có quyết định làm như chúng tôi không? Nếu tất cả miền Nam làm như vậy thì tôi đảm bảo chúng tôi sẽ đứng vững và sẽ phát triển, còn nếu cả nước không làm thì miền Tây chúng tôi khó lòng chịu được sức ép của địch. Do đó, có thể sẽ mất toàn bộ miền Tây. Nghe tôi trình bày, nhiều vị tướng và đặc biệt là anh Ba Duẩn suy nghĩ lung lao lắm. Anh Ba biết tôi từ lâu nên hẳn anh đã có lòng tin với tôi và với miền Tây. Cuối cùng tôi rất mừng là những ý kiến đó của tôi được anh Ba đồng tình và anh Võ Nguyên Giáp đồng tình…”.

Ðồng chí Võ Văn Kiệt (bìa trái) ra quân cùng lực lượng thanh niên xung phong năm 1976.            Ảnh tư liệu

Buổi đầu của Hiệp định Paris, nhất là trước sức “tràn ngập lãnh thổ” của địch, các địa phương trong Khu 9 rất bỡ ngỡ, nhiều tỉnh, nhiều vùng ở miền Tây mất đất, mất dân, mất địa bàn. Nhưng chấp hành chủ trương “đánh trả” của Khu uỷ, Ðảng bộ và quân dân các tỉnh vùng dậy đánh địch bằng ba mũi giáp công: chống càn quét, tiêu diệt đồn bót, phá ấp chiến lược, giành thắng lợi quan trọng: Ðẩy địch ra khỏi vùng giải phóng, ra khỏi vùng căn cứ, buộc địch phải co cụm ra các con đường chiến lược. Ðặc biệt, trên địa bàn trọng điểm “tràn ngập lãnh thổ” Chương Thiện của chính quyền Sài Gòn, dưới sự chỉ đạo của Khu uỷ Khu 9 và quân khu, quân dân ta tiêu diệt 75 lượt tiểu đoàn quân địch (theo thông tin không chính thức là quân địch bị quân ta tiêu diệt tại chiến trường Chương Thiện là 40 tiểu đoàn).

Quyết định của Khu uỷ Khu 9: "đánh trả" âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn, không chỉ có ý nghĩa về sự tồn tại của miền Tây, mà điều quan trọng hơn là mở ra hướng mới cho cách mạng miền Nam, là một bài học đóng góp xứng đáng vào những chuyển biến chiến lược của Trung ương, của Bộ Chính trị. Tháng 9/1973, từ chủ trương, cách làm của miền Tây đánh trả âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn trở thành quyết sách giải quyết tình hình miền Nam bằng Nghị quyết số 21 của Trung ương Ðảng.

Chủ trương đánh trả bọn nguỵ quyền Sài Gòn cố tình phá hoại Hiệp định Paris và thực hiện âm mưu “tràn ngập lãnh thổ”… là sự cống hiến to lớn của Khu uỷ Khu 9, của quân dân miền Tây Nam Bộ, mà người đứng đầu, khởi xướng là Bí thư Khu uỷ Khu 9 Võ Văn Kiệt./.

Phạm Văn Tri

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.