Bài 1: Sôi động từ nghị quyết… biển
Bài 2: Khai thác thủy sản biển, ven biển: Cần sự trợ lực
Phân loại cá biển tại Cảng cá Gành Hào (huyện Đông Hải). Ảnh: L.D
Mặc dù thời gian qua, hoạt động kinh tế biển của Bạc Liêu gặt hái những thành tựu đáng kể, song cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế, làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế của địa phương. Việc triển khai thực hiện các chính sách nhằm vực dậy nghề khai thác biển là một điển hình.
CHÍNH SÁCH CHỜ… HÀNH ĐỘNG
Ông Nguyễn Tú An (phường Hộ Phòng, TX. Giá Rai) sống bằng nghề khai thác biển theo nghiệp “cha truyền, con nối”. Sau 25 năm bám biển bằng hai chiếc tàu đánh bắt xa bờ (mỗi chiếc 270CV), ông An đúc kết: “Nghề khai thác biển có thể nuôi sống chủ tàu, tài công, ngư phủ… nhưng ít ai có thể làm giàu”.
Một số chủ tàu cho rằng, để có thể giàu lên từ nghề biển, ngư dân phải có vốn lớn để đóng tàu lớn đánh bắt ở vùng lộng và vùng khơi (chịu được sóng gió cấp 5, 6). Đồng thời phải trang bị lưới dài, trang thiết bị hàng hải hiện đại cộng với kinh nghiệm thì tài công có thể đánh giá chính xác ngư trường. Có tàu lớn (công suất máy chính từ 400CV trở lên), có lưới dài và chất lượng thì ngư dân sẽ bám trụ được dài ngày trên biển (từ 90 ngày trở lên), giảm đáng kể chi phí ra vào bờ. Tàu có đến được vùng biển càng xa thì mới có cá lớn, giá trị kinh tế cao càng nhiều. Có vốn mạnh, chủ tàu cũng không phải lệ thuộc chủ vựa để bị ép giá sản phẩm thu mua, từ đó lợi nhuận cao hơn. Nếu có được những yếu tố ấy, mỗi chuyến ra khơi, chủ tàu có thể kiếm lời từ 500 - 600 triệu đồng.
Trong khi đó, nghề khai thác biển của Bạc Liêu ít ai làm được như vậy. Theo báo cáo của Sở NN&PTNT, trong số 1.254 tàu cá của tỉnh hiện nay, chưa được một nửa số tàu đánh bắt xa bờ, và chỉ có 31 tàu làm dịch vụ hậu cần nghề cá trên biển. Hiện tại cũng mới có 51/521 tàu đánh bắt xa bờ được trang bị máy định vị vệ tinh, hệ thống thông tin liên lạc đường dài để trao đổi thông tin ngư trường, hỗ trợ nhau trong hoạn nạn và nâng cao hiệu quả đánh bắt. Ngược lại, nếu phải “ăn trước trả sau” với chủ vựa, cộng với tàu nhỏ, trang bị lưới ngắn, không chở được nhiều ngư lưới cụ lại đánh bắt gần bờ thì sản phẩm có giá trị thấp, chi phí tăng cao, ít lợi nhuận hoặc thậm chí không có lời.
Sự ra đời Nghị định 67/2014/NĐ-CP (tháng 7/2014) của Chính phủ đã đáp ứng đúng với nhu cầu của nghề khai thác biển Bạc Liêu. Song song theo đó là chính sách tín dụng đặc biệt ưu đãi dành cho ngư dân có nhu cầu đóng mới, nâng cấp, cải hoán tàu cá cỡ lớn để vừa khai thác vừa góp phần bảo vệ biển đảo quê hương. Ngư dân càng phấn khởi hơn khi được biết Nghị định 89/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 67 kéo dài thời hạn cho vay hỗ trợ lãi suất đối với chủ tàu đóng mới tàu vỏ thép, vật liệu mới đến 16 năm; đối tượng đóng mới tàu hậu cần vỏ vật liệu mới, nâng cấp tàu vỏ vật liệu mới cũng được hưởng chính sách tín dụng này. Ngư dân Bạc Liêu ai cũng hy vọng sẽ có cơ hội làm giàu từ chủ chương này.
Tuy nhiên, đã hơn 1 năm trôi qua, trong số 15 chủ tàu được UBND tỉnh chấp thuận, đề nghị tiếp cận (đợt 1) gói hỗ trợ của Chính phủ, đến nay chỉ mới có chủ tàu dịch vụ hậu cần Đức Lợi (thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải) được vay khoảng 15 tỷ đồng. Nhiều ngư dân cho rằng, chính sự rườm rà, nhiêu khê thủ tục từ các ngân hàng thương mại khiến họ nản lòng. Vì thế họ mong đợi sự vào cuộc quyết liệt hơn từ phía các ngành chức năng và hệ thống ngân hàng thương mại (được Chính phủ chỉ định cho vay) để các chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống một cách kịp thời.
CẦN MỘT CUỘC SỐNG TỐT HƠN
Mặc dù nghề khai thác biển của Bạc Liêu có truyền thống từ lâu đời, nhưng cuộc sống của ngư dân và người dân ven biển vẫn chưa thật sự phát triển bền vững. Theo kết quả khảo sát của tỉnh, đa số dân cư vùng ven biển là những người nghèo, cuộc sống chủ yếu dựa vào nguồn lợi biển. Trên thực tế, hơn một nửa ngư dân có tàu chuyên sống nghề khai thác biển bằng phương tiện thô sơ, nhỏ bé. Từ đó tạo ra áp lực rất lớn đối với bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản ven bờ.
Sở NN&PTNT đánh giá, nguồn lợi thủy sản phong phú của tỉnh có nguy cơ bị cạn kiệt. Đáng chú ý, người dân khai thác trái phép nghêu, cá kèo, cua giống… ở các bãi bồi khiến nguồn lợi thủy sản bị xâm hại nghiêm trọng. Một nguyên nhân khác làm cho đa số ngư dân thời gian qua chưa thể giàu lên nhờ biển bởi tình trạng ngư dân có tàu nhưng không muốn ra khơi hoặc ra khơi mà không có lợi nhuận đang tồn tại khá phổ biến.
Ông Huỳnh Mừng Em, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ, nuôi trồng, khai thác bãi bồi ven biển Vĩnh Thịnh (huyện Hòa Bình), cho biết trong số 297 xã viên của HTX thì có tới 285 hộ nghèo, cận nghèo và người dân tộc Khmer. Do không có vốn để khai thác 600ha đất bãi bồi nên đành mời gọi nhà đầu tư để chia cho họ 75% lợi nhuận từ việc nuôi nghêu. Trong khi đó, muốn vay được vốn ưu đãi để đầu tư cho sản xuất, đòi hỏi HTX phải thế chấp tài sản. Trước thực trạng ấy, việc đảm bảo sinh kế bền vững cho cư dân ven biển để giảm thiểu áp lực đối với nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái biển của tỉnh đã trở thành nhu cầu cấp bách.
TẤN ĐẠT
Nghị quyết 04 của Ban Chấp hàng Đảng bộ tỉnh (khóa XIV) đề ra mục tiêu, phấn đấu giá trị sản xuất toàn vùng Nam QL1A năm 2015 đạt 21.070 tỷ đồng (chiếm 54,22% toàn tỉnh). Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011 - 2015 đạt 13,64%; kim ngạch xuất khẩu chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh; thu nhập bình quân đầu người đạt 53,6 triệu đồng/năm, cao hơn 38% so với bình quân chung của cả tỉnh.