ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 25-4-25 15:49:18
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Công tác chuẩn bị của Trung ương cho cuộc tập kết (*)

Báo Cà Mau Tháng 9/1954, Tổng Quân uỷ ra Chỉ thị số 123/CT-4 về việc đón tiếp cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết ra miền Bắc, quân tình nguyện Việt Nam ở Lào về nước. Chỉ thị nêu rõ: “Việc bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc cũng nhằm để thi hành đúng hiệp định đình chiến, đồng thời cũng để xây dụng lực lượng vũ trang hùng mạnh, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chính trị, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Vì vậy, việc đón tiếp bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra miền Bắc tập kết có một ý nghĩa chính trị rất lớn”.

Tổng Bí thư Lê Duẩn gặp các anh hùng, chiến sĩ miền Nam tại Ðồ Sơn, Hải Phòng, năm 1973. Trong số này, nhiều người là HSMN. Ảnh tư liêu

Tổng Bí thư Lê Duẩn gặp các anh hùng, chiến sĩ miền Nam tại Ðồ Sơn, Hải Phòng, năm 1973. Trong số này, nhiều người là HSMN. Ảnh tư liệu

Với chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, quân và dân ta đã buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, Lào, Campuchia. Theo quy định của hiệp định, hai bên có thời gian 300 ngày (22/7/1954-17/5/1955) để chuyển quân tập kết ra Bắc, vào Nam (lấy ranh giới là vĩ tuyến 17); tiến hành trao trả tù binh, giải quyết các vấn đề sau chiến tranh.

Thực hiện quy định về chuyển quân tập kết ra Bắc, ngày 31/8/1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam ban hành chỉ thị “Về việc đón tiếp bộ đội, thương binh, một số cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc”. Chỉ thị nêu rõ, đây là việc “cần phải làm thật chu đáo và có kết quả thật tốt”, bởi “việc đón tiếp, phân phối công tác, tìm nơi tạm ở và công ăn việc làm là rất trọng yếu, có ảnh hưởng và tác dụng chính trị rất lớn, không những đối với tinh thần, tư tưởng của những người ra ngoài này mà còn có ảnh hưởng rất lớn đối với tinh thần đồng bào miền Nam ở trong kia".

Các địa điểm được chọn đón đồng bào, chiến sĩ tập kết hết sức khẩn trương làm công tác chuẩn bị. Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu IV tổ chức chỉ đạo các tỉnh lập “Phòng miền Nam”, đảm nhận công tác đón tiếp, sắp xếp cho đồng bào, chiến sĩ tập kết.

Ở các địa điểm chính như Sầm Sơn, Cửa Hội, các bộ phận quân nhu, vận tải luôn thường trực, phối hợp với lực lượng của Bộ Tổng Tư lệnh sẵn sàng làm công tác đón tiếp một cách chu đáo nhất. Sau 9 năm kháng chiến gian khổ, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề, đời sống Nhân dân miền Bắc nói chung cũng như các địa điểm được chọn để đón đồng bào, chiến sĩ tập kết còn hết sức khó khăn. Nhưng Ðảng bộ, chính quyền và Nhân dân các địa phương đã dành những điều kiện tốt nhất để đón tiếp cán bộ, chiến sĩ, học sinh cùng nhiều gia đình cách mạng miền Nam tập kết.

Ðể có phương tiện di chuyển lực lượng lớn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào từ miền Nam ra Bắc, Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam đã nhờ Liên Xô giúp đỡ. Phía bạn đã lập một uỷ ban hỗn hợp lo liệu việc thuê tàu, tổ chức chuyên chở. Công ty Vận tải biển Sovfracht (Liên Xô), được giao thực thi công việc này. Công ty lập phương án chọn các tàu hàng có tải trọng lớn, đang có mặt ở vùng Viễn Ðông để hoán cải chở người. Năm con tàu: Kilinski (Ba Lan), Arkhangelsk và Stavropol (Liên Xô), Sunny Queen và Sunny Prince (Na Uy) được chọn. Những tàu trên được đưa đến Nhà máy Ðóng tàu Quảng Châu (Trung Quốc) sửa chữa, cải tạo, để từ những chiếc tàu chở hàng chỉ có vài chục thuỷ thủ đoàn, được chuyển sang chở hàng ngàn người. Hầm tàu được cọ rửa sạch để chứa nước ngọt, thực phẩm. Các tầng, hầm boong được đóng sạp nhiều tầng để người nằm; làm thêm bếp, nhà vệ sinh...

Dự kiến sau khi ra đến miền Bắc, đồng bào, chiến sĩ miền Nam sẽ được học tập; sau đó lực lượng vũ trang sẽ được Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức lại biên chế, quản lý theo chế độ quân nhân; anh em thương binh sẽ được điều trị, an dưỡng, hồi phục sức khoẻ tiếp tục phục vụ quân đội. Những người sức khoẻ không đảm bảo sẽ được đưa về chăm nuôi tại các xã; cán bộ, nhân viên kỹ thuật, công nhân được bố trí công tác. Với gia đình cán bộ và một số đồng bào trong diện tập kết sẽ được chính quyền và các đoàn thể giúp đỡ, đảm bảo nơi ăn, ở, tìm kiếm việc làm ổn định. Trung ương cũng yêu cầu tổ chức một cuộc tuyên truyền, giáo dục sâu rộng để  “cán bộ và Nhân dân nhận thấy việc đón tiếp và giúp đỡ này là nghĩa vụ và cũng là vinh dự... Cần có thái độ ân cần, săn sóc, giúp đỡ anh chị em miền Nam ra giải quyết mọi sự khó khăn, lo lắng, coi như anh chị em ruột thịt... Phải có thái độ đối với những người có công với Tổ quốc”.

Ðể tạo điều kiện học tập cho thiếu niên miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng đã chỉ thị Bộ Giáo dục thành lập Trường học sinh miền Nam, hình thành nên những mái trường nội trú, là nơi nuôi dưỡng, dạy dỗ, tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước. Trong điều kiện còn khó khăn nhưng cấp bộ đảng, chính quyền và bà con miền Bắc bảo đảm những điều kiện tốt nhất từ lương thực, thực phẩm, quần áo đến giáo viên giảng dạy, tạo nên mô hình giáo dục có một không hai và được đánh giá thành công trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc.

Tháng 10/1954, tại Chắc Băng (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Bạc Liêu - nay là Cà Mau, Bạc Liêu), đại diện cho Trung ương, đồng chí Lê Duẩn triệu tập Hội nghị thảo luận những nhiệm vụ của Nam Bộ trong giai đoạn mới, thành lập Xứ uỷ Nam Bộ. Hội nghị cũng tiến hành bàn thảo công tác chuyển quân tập kết, trong đó quan trọng nhất là bố trí lực lượng tập kết ra miền Bắc và ở lại tiếp tục hoạt động ở miền Nam theo tinh thần “đi là thắng lợi, ở là vinh quang".

Theo quy định, tại Nam Bộ, sau 35 ngày, tính từ ngày 21/7/1954, đến 6 giờ ngày 26/8/1954, lực lượng tập kết ra miền Bắc phải chuyển quân vào 3 khu vực: Hàm Tân - Xuyên Mộc, Cao Lãnh - Ðồng Tháp Mười và Cà Mau. Cũng tính từ ngày 21/7/1954, thời gian tập kết tại Cà Mau là 200 ngày (đến 6 giờ ngày 10/2/1955).

Tại Phân liên khu miền Tây, lực lượng tập kết tập trung về khu 200 ngày Cà Mau với tổng cộng 29.138 người, trong đó có 17.344 quân nhân thuộc các đơn vị chủ lực miền Tây, được biên chế thành 4 trung đoàn: Trung đoàn 1 (Tiểu đoàn chủ lực 307, bộ đội địa phương và du kích các tỉnh Vĩnh Trà, Bến Tre); Trung đoàn 2 (Tiểu đoàn 410, bộ đội địa phương và du kích các tỉnh Cần Thơ, Long Châu Hà); Trung đoàn 3 (Tiểu đoàn 308, bộ đội địa phương và du kích các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu); Trung đoàn 4 (các cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp, quân nhu, các đơn vị binh chủng). Lực lượng còn lại gồm công nhân quân giới, công nhân viên các cơ quan Dân - Chính - Ðảng, số du kích và các cán bộ xã không thể ở lại địa phương được biên chế thành từng khối theo mỗi tỉnh. Cùng với đó có 986 thương binh, bệnh binh. Trong lực lượng tập kết còn có 1.038 người của cách mạng Campuchia (6 cán bộ cấp Trung ương, 16 cán bộ cấp miền, tỉnh, 30 cán bộ cấp huyện, 12 sinh viên đại học và trung học, cán bộ cơ sở và chiến sĩ chiếm tới 80% tổng số; trong đó có 128 đồng chí là đảng viên Ðảng Nhân dân, 130 thiếu niên; 17 phụ nữ, 5 gia đình cán bộ).

Ngày 25/9/1954, tàu Arkhangelsk thực hiện chuyến chuyển quân tập kết đầu tiên, chở đồng bào, chiến sĩ từ Hàm Tân rẽ sóng tiến vào cửa Lạch Hới trong niềm hân hoan chào đón của Nhân dân Sầm Sơn (Thanh Hoá). Ðến hết tháng 5/1955, Sầm Sơn trở thành địa điểm đón tiếp chính các chuyến tàu đưa lực lượng tập kết ra miền Bắc, có 45 chuyến tàu cập bến tại đây, với 79.996 người. Với những tàu lớn, phải đậu ngoài xa, Ðảng bộ, chính quyền Sầm Sơn đã huy động Nhân dân dùng thuyền đánh cá đưa đồng bào vào bờ, có những chuyến phải trung chuyển mất 2 ngày mới xong.

Ngày 8/2/1955, chuyến tàu cuối cùng chở quân ở Nam Bộ từ Cà Mau ra miền Bắc rời sông Ông Ðốc, kết thúc 200 ngày tập kết tại Cà Mau. Ngày 16/5/1955, chuyến cuối cùng rời cảng Quy Nhơn, kết thúc đợt chuyển quân tập kết.

Theo thống kê chưa đầy đủ, tàu Kilinski (Ba Lan) do thuyền trưởng R. Cielewicz chỉ huy, từ tháng 10/1954 đến tháng 5/1955, đã thực hiện 27 chuyến Nam - Bắc, vận chuyển 85 ngàn người, 3.500 vũ khí các loại, 250 tấn đạn dược; tàu Arkhangelsk (Liên Xô) do thuyền trưởng là Giôtốp chỉ huy đã thực hiện 12 chuyến Nam - Bắc trong khoảng thời gian từ tháng 9/1954 đến tháng 2/1955, chuyên chở hơn 30 ngàn người và hơn 1.300 tấn hàng.

Cuộc chuyển quân từ miền Nam ra tập kết ở miền Bắc, là cuộc đấu tranh tư tưởng, tuy âm thầm nhưng đầy quyết liệt của quân và dân miền Nam. Trong niềm vui, tin tưởng vào việc sau 2 năm kể từ ngày Hiệp định Giơ-ne-vơ có hiệu lực, hiệp thương tổng tuyển cử sẽ được tiến hành để thống nhất đất nước, còn xen lẫn nỗi băn khoăn, lo lắng. Mặc dù vậy, dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Ðảng, chính quyền và đoàn thể, việc chuyển cán bộ, lực lượng vũ trang miền Nam ra tập kết ở miền Bắc được tiến hành bảo đảm đúng tiến trình, thời gian, chu đáo, chặt chẽ, thể hiện sự nghiêm chỉnh và tinh thần đoàn kết Nam - Bắc một nhà, vì lợi ích dân tộc, quốc gia trên hết.

(*) Tổng hợp từ sách “300 ngày đấu tranh, thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ (22/7/1954-17/5/1955)” do Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam biên soạn, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2019.

 

Thanh Trúc tổng hợp

 

Nơi nhắc nhớ, tri ân những anh hùng

Ðối với người dân ở thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển cũng như người dân Cà Mau, Di tích Bến Vàm Lũng là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống, cũng là nơi thể hiện lòng tri ân những người anh hùng hiên ngang mở đường, góp sức làm nên những chiến công hiển hách. Ðể ngày nay, trước thời khắc đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt Ðường Hồ Chí Minh trên biển, người dân Cà Mau hướng về đây với cảm xúc tự hào và lòng biết ơn sâu sắc.

Về nơi con tàu đầu tiên cập bến

Những ngày tháng Tư lịch sử này, giữa niềm vui chung hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lòng người dân Rạch Gốc - Tân Ân lại rộn ràng hơn, bởi cái tin bến Vàm Lũng chuẩn bị đón nhận bằng Di tích Quốc gia đặc biệt. Với họ, những con người của vùng đất đã góp phần cùng Phan Ngọc Hiển làm nên Khởi nghĩa Hòn Khoai lịch sử năm 1940 này, ký ức một thời từng gắn bó ruột rà, máu thịt với Ðoàn 962 như sống dậy, đằm thắm yêu thương, chen lẫn tự hào.

Ðời người chỉ sống một lần

Ông Ba Lành (Trần Ngọc Lành, sinh năm 1942, ngụ ấp Rạch Lăng, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời), thương binh 4/4, tâm tình rằng: “Tôi may mắn còn sống, đó là hạnh phúc lớn lao vì còn được tận hưởng thành quả hoà bình, thống nhất, những điều mà nhiều đồng chí, đồng đội khác không có được”...

Tri ân miền Ðất thép

Mỗi “địa chỉ đỏ” trên mảnh đất hình chữ S đều gắn liền với sự kiện, mốc son lịch sử trong quá trình đấu tranh của quân và dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây không chỉ là nơi giáo dục truyền thống cách mạng dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước cho lớp lớp thế hệ mai sau, mà còn thể hiện trách nhiệm, lòng biết ơn của thế hệ hôm nay với những hy sinh to lớn của cha ông cho nền độc lập, tự do của dân tộc.

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.