Chúng ta từng biết Cà Mau không phải là vùng đất hoang sơ “khỉ ho cò gáy”, dân trí thấp kém như một vài “học giả” không sát thực tế đã từng nói. Cũng như không phải nơi tận cùng “hải giác thiên nhai” để cho mãnh thú và tội đồ từ các nơi đến ở với “lính trốn và trốn lính” theo một vài cuốn sách nào đó, làm lem ố những dòng lịch sử chói ngời của vùng đất thiêng, bao phen làm điểm tựa cho lịch sử cả miền đồng bằng Nam Bộ.
- Kết nối, trao tặng tư liệu, hiện vật là trách nhiệm
- Sưu tầm được nhiều tư liệu, hiện vật quý
- Tư liệu quý từ ghi chép của người tập kết
Ðây là bức tượng cách điệu hình ảnh cuộc tiễn đưa đầy xúc động, kẻ ở người đi đầy lưu luyến tại cửa sông Ông Ðốc. Ảnh: HỒNG NHUNG
Cà Mau, dù khiếm khuyết đường bộ, nhưng trời cho một mạng lưới sông ngòi “thắt rế” vào đất liền, nối cuộc sống đất liền thông lưu ra biển Ðông và biển Tây bằng hàng trăm con sông lớn, nhỏ. Kỳ diệu nhất là sông Cửa Lớn, hai đầu đều giáp biển, với độ dài hơn 50 cây số, chứa đựng cơ man nào là chiến tích từ thời hùng binh Tây Sơn dùng chiến thuyền tìm diệt Nguyễn Ánh.
Cửa Khoa Giang (sau này là sông Ông Ðốc) từng là chiến trường của hai bên - mà Nguyễn Ánh là quân bại trận bị truy đuổi. Quân Tây Sơn dựng trại (phía đồn biên phòng ta bây giờ) để canh giữ biển Tây và những năm nửa cuối thế kỷ XVIII. Một thế kỷ sau, những năm 1872-1875, trinh sát nghĩa quân Ðỗ Thừa Luông, Ðỗ Thừa Tự từng tổ chức thu mua vũ khí ở Xiêm La chuyển về Cái Tàu qua vàm sông Ông Ðốc. Lịch sử dân tộc ta lại gặp nhau ở đây, khi ta chọn Cà Mau - sông Ông Ðốc làm nơi tập kết (200 ngày và bến tiễn đưa).
Do những hội tụ về lịch sử và địa lợi như vậy, Cà Mau đương nhiên là chiến khu hùng mạnh của cuộc đánh Pháp, che chở và gánh vác trên “đôi vai tràm đước bạt ngàn” bao nhiêu nghĩa vụ chung, không một lần từ nan thối thoát. Vì sao chúng ta có một Cà Mau với khu tập kết 200 ngày và bến tập kết sông Ông Ðốc làm điểm tựa kỳ diệu và lâu bền cho lịch sử chiến tranh vệ quốc ở phương Nam vào đầu xuân 1955 như vậy?
Ðây là một đề tài lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực, cần có thời gian để phân tách và chung hợp theo một cách nhìn mới. Ở bài này, chúng ta chỉ phác hoạ đường trôn ốc của chu kỳ lịch sử vùng tập kết (từ ngày 1/8/1954: khi một bộ phận Tiểu đoàn 307 cùng phối hợp các lực lượng Uỷ ban Liên hợp vào tiếp quản Cà Mau, Tắc Vân, Hộ Phòng, Giá Rai và Hoà Bình, trên Quốc lộ 4. Cho đến ngày 10/2/1955, chuyến tàu cuối chở quân ta rời bến sông Ông Ðốc).
Cho tới giờ này, những tư liệu tham khảo mà ta đang đọc, những con số về các chuyến xuất phát đầu tiên và cuối cùng, vẫn chưa khớp nhau. Song, điều đó không còn quan trọng nữa, bởi chúng ta muốn nhìn lại cuộc tập kết (chớ không phải chuyến tàu tập kết) để có thể cùng rút ra bài học gì cho lịch sử vệ quốc. Thứ đến, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Tây Nam Bộ và tỉnh Cà Mau (bấy giờ là Bạc Liêu) đã thể hiện vai trò gì ở thời điểm cột mốc đó. Việc đưa các cháu thiếu nhi đi học, cùng hàng vạn tấn lương thực ra Bắc hết sức có ý nghĩa chiến lược ở thời điểm kết thúc chiến trận cũ, bắt đầu chiến trận mới, với kẻ thù mới. Chúng ta đã từng có rất nhiều tư liệu về Mỹ “sang tay” thực dân Pháp. Cuộc hội nghị đầu tiên ở Chắc Băng đã cử đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư, với một tập thể đủ mạnh về trí tuệ và mưu lược cách mạng. Từ bộ tham mưu này, ta đã từng bước chuyển khó khăn ra thắng lợi, mà trước hết tạo ngay một thế mạnh để dựa vào.
Thứ nhất: Cấp đất cho nông dân. Việc làm này khiến bà con nông dân hết lòng theo Ðảng, dốc sức chiến đấu với Mỹ - Diệm phá hoại hiệp định, trường kỳ kháng chiến đến ngày toàn thắng.
Thứ hai: Ta chọn súng tốt chôn giấu để lại. Cà Mau tiếp nhận 2.000 khẩu, cộng với 6 tấn vũ khí từ Trung ương đưa ngược vào (theo các chuyến tàu nước bạn Liên Xô, Ba Lan chạy vu hồi vô Nam). Cùng nhiều máy móc, phương tiện thông tin cho cơ quan chỉ đạo. Nhờ vậy, mấy năm sau, ta có súng trang bị các đơn vị vũ trang đầu tiên. Những hầm súng của ta như kho báu, hết sức cần.
Thứ ba: Xứ uỷ theo lệnh Trung ương, chọn cán bộ thích hợp với tình hình mới, lên danh sách bí mật để lại miền Nam, trong đó có đồng chí Bí thư Xứ uỷ Lê Duẩn (xuống tàu lớn cho mọi người thấy, rồi trước khi tàu nhổ neo, bố trí rước đồng chí trở lại với Cà Mau...).
Thứ tư: Bảo vệ chu toàn cho đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ - Lê Duẩn ở Cà Mau bằng lòng dũng cảm, tình thương yêu của Ðảng bộ và Nhân dân Cà Mau. Giặc ra sức truy tìm để tiêu diệt đầu não của ta, còn dân ta thì ra sức bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Riêng ở Cà Mau, đã có hơn 20 cơ sở nuôi chứa đồng chí Lê Duẩn - cũng chính là nuôi chứa, bảo vệ cơ quan Xứ uỷ Nam Bộ sau những tháng năm tập kết. Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa địch - ta ở Cà Mau, tạo những suy nghĩ cho bước khởi thảo Ðề cương Ðường lối Cách mạng miền Nam của tác giả Lê Duẩn.
Thứ năm: Song song phát động và tổ chức phong trào đấu tranh chính trị, đưa người của ta vào lòng giặc, giảm bớt mức độ ác ôn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ và đàn áp bắn giết quần chúng, ta tổ chức giáo phái (lực lượng vũ trang ngầm) và hoạt động diệt ác phá kìm, giải thoát cán bộ và Nhân dân bị giặc bắt. Duy trì nếp sống cách mạng, vũ trang tuyên truyền với danh nghĩa “Hoà Hảo dân xã” chống Mỹ - Diệm. Cà Mau là nơi tái xây dựng lực lượng vũ trang sớm nhất, phục vụ cho cuộc nổi dậy theo Nghị quyết 15 - Ðồng khởi.
Thứ sáu: Mở đường ra Bắc, liên hệ với Trung ương bằng tuyến biển (phát huy ưu thế Cà Mau) do đồng chí Bông Văn Dĩa và 6 đồng chí khác, dùng ghe buồm có gắn máy, xuất phát từ rạch Cái Mòi (Mũi Cà Mau) ngày 1/8/1961. Chuyến đi đặc biệt thành công, tạo tiền đề tốt đẹp cho việc thiết lập con đường mang tên Bác Hồ trên biển. Ðoàn 962 và Ðội tàu không số của Hải quân Việt Nam anh hùng là chuỗi nối dài sau đó.
Thứ bảy: Sau Ðồng khởi 1960, các Tiểu đoàn U Minh 306, 207 pháo cao xạ khu Tây Nam Bộ (18 khẩu 12 ly 7) đã tiêu diệt cứ điểm Chà Là vào 0 giờ ngày 23/11/1963 chào mừng Kỷ niệm Ngày Nam kỳ khởi nghĩa. Ta đánh bại quân cứu viện, diệt trên 600 tên địch, bắn rơi 19 máy bay các loại, thu hàng trăm súng và 500 chiếc dù (trận đầu ta bắn rơi nhiều máy bay địch và đánh bại quân tổng dự bị trung ương nguỵ). Cùng lúc diệt hàng loạt chi khu (Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là) là kỳ công lớn nhất của ta năm 1963, phá huỷ toàn bộ hệ thống cứ điểm vững chắc, diệt sạch 5 đợt quân tiếp viện, khiến cho địch lo sợ.
Có thể nói, sau khi ta chuyển quân tập kết tại bến sông Ông Ðốc, cho đến chiến thắng Liên chi khu Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là, Ðảng bộ và quân dân Cà Mau - Tây Nam Bộ đã “tựa máu mình đứng dậy” theo hướng đi từ kinh nghiệm đấu tranh của chính bản thân phong trào mình đúc kết thành đường lối cách mạng miền Nam, đánh dấu bằng chiến thắng lẫy lừng sau tập kết gần một thập niên.
Những đặc điểm và bài học lịch sử trên đây lại hội tụ ở Cà Mau, vì Cà Mau trên thực tế được chọn làm điểm tựa vững chắc và lâu bền cho nhiều giai đoạn cách mạng, mà chúng ta cùng trải qua bằng sự hy sinh vô bờ bến và niềm tự hào thôi thúc.
Bảy đặc điểm nói trên là một thể thống nhất, khó tách rời; nhân quả quyện chặt nhau giữa trong - ngoài, sau - trước. Từ bước đi đúng hướng, đúng thời điểm này, cuộc tập kết của ta ở cửa sông Ông Ðốc nghiễm nhiên là cột mốc lịch sử. Nhìn lại lịch sử để chúng ta có thể tìm ra sức mạnh và niềm tin về một Cà Mau trong vai trò chung của vùng đất./.
Nguyễn Bá