ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 1-11-24 08:33:20
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Cửa Lớn mở tương lai

Báo Cà Mau Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Trong mỗi chuyến hành trình ấy, mỗi khi con sông Cửa Lớn lọt vào tầm mắt, tôi lại trải qua những cung bậc cảm xúc lạ lùng. Ngồi trên thuyền vượt sông, cảm giác vừa thích thú, vừa sờ sợ, y như đang trải qua một trò chơi mạo hiểm.

Muốn qua sông Cửa Lớn phải canh nước, canh gió cẩn thận. Gặp lúc sóng lớn, cả nhà phải neo ghe chờ đến sáng sớm hôm sau. Cũng có lúc đánh liều qua sông khi sóng nhiều, tới bờ bên kia, cả nhà mới nhìn nhau thở phào nhẹ nhõm.

Trong con mắt của đứa quanh năm không ra khỏi lũy tre làng, cuộc sống gắn liền với những con rạch êm đềm, nước chảy lặng lờ bên vùng ngọt như tôi, con sông Cửa Lớn thật sự là một kỳ quan của thiên nhiên. Tôi hay kể lại với bạn bè cùng trang lứa về tầm vóc của con sông trong cái trạng thái mắt chữ "A", mồm chữ "O" của tụi nó.

Thật ra thì, đoạn sông mà gia đình tôi hay qua là chỗ hẹp nhất và nước êm nhất của sông Cửa Lớn. Phải chăng, đó là yếu tố quyết định để người ta chọn xây cầu Năm Căn ở đây? Có thể lắm.

Cầu Năm Căn nối đôi bờ sông Cửa Lớn, kết nối hạ tầng giao thông bộ từ địa đầu cực Bắc đến cực Nam Tổ quốc. Ảnh: HUỲNH LÂM

Cầu Năm Căn nối đôi bờ sông Cửa Lớn, kết nối hạ tầng giao thông bộ từ địa đầu cực Bắc đến cực Nam Tổ quốc. Ảnh: HUỲNH LÂM

Cà Mau là vùng đặc trưng sông nước. Ðương nhiên rồi! Theo sách "Ðịa lý Cà Mau", do Tiến sĩ Thái Văn Long chủ biên, tỉnh Cà Mau có 8 con sông chính, với tổng chiều dài lên đến hơn 7.000 km, tức gấp 3 lần chiều dài đất nước Việt Nam.

Trong số những con sông mang màu sắc huyền thoại của xứ Cà Mau, thì sông Cửa Lớn xứng đáng được xếp ở vị trí đầu tiên, bởi đây là sông sâu nhất và rộng nhất, khoảng 200 m. Chiều dài sông là 58 km, chỉ ngắn hơn chút ít so với sông Ông Ðốc.

Ðiểm đặc biệt nhất của dòng Cửa Lớn là con sông này không có thượng nguồn và cũng không có hạ nguồn. Sông Cửa Lớn giống như một chiếc gạch nối khổng lồ giữa biển Ðông với biển Tây, chắt chiu tinh tuý từ hai cửa biển, hội tụ ở giữa rồi lan toả ra một vùng rộng lớn.

Ở phía biển Ðông, sông Cửa Lớn thông với cửa Bồ Ðề, chảy qua những khu dân cư sầm uất. Trong khi phía Tây, sông giáp cửa Ông Trang, với nhiều nét hoang sơ, còn biết bao tiềm năng, chờ bàn tay con người đánh thức. Sông Cửa Lớn chi chít nhánh rẽ, tạo thành một hệ thống mang nguồn sống đi muôn nơi.

Tượng đài Khởi nghĩa Hòn Khoai được xây dựng tại trung tâm thị trấn Năm Căn, ven sông Cửa Lớn. Ảnh: H.LÂM

Tượng đài Khởi nghĩa Hòn Khoai được xây dựng tại trung tâm thị trấn Năm Căn, ven sông Cửa Lớn. Ảnh: H.LÂM

Mỗi nơi sông Cửa Lớn chảy qua, người dân bản địa đều đặt cho một cái tên riêng, như Năm Căn, Tam Giang, rồi Bồ Ðề. Mỗi cái tên đều gắn với những sự kiện lịch sử oai hùng và nét văn hoá đặc trưng. Ai có thể quên những trận đánh tàu trên sông Tam Giang; rồi những chuyến tàu, ghe âm thầm mang vũ khí, đạn dược từ bến Vàm Lũng huyền thoại cung cấp cho chiến trường?

Suốt chiều dài con sông, dấu ấn về một cuộc khai hoang, mở đất như hiển hiện trước mắt thông qua những xóm hầm than, những hàng đáy cặm, đáy bè, và cả những câu chuyện kể của những người đi săn cá dứa nổi đặc sông khi mùa trái mắm rụng. Ði dọc con sông này, cuộc sống từ quá khứ cho đến hiện tại phô bày như một bức tranh sống động và chi tiết.

Ngày nay, với tâm thế hướng về biển, trở thành tỉnh mạnh về biển, dòng sông Cửa Lớn đóng vai trò quan trọng trong tầm nhìn và quy hoạch của tỉnh Cà Mau.

Muốn phát triển nuôi - chế biến thuỷ sản, khai thác tiềm năng du lịch hay logistics... có thể nhìn thấy nhiều cơ hội ở con sông này.

Hãy thử hình dung về những bến cảng nhộn nhịp dọc hai bờ sông, tàu thuyền như mắc cửi hướng về Cảng nước sâu Hòn Khoai, có thể nhìn khá rõ từ đất liền.

Rồi từ đây, hạt gạo, con cá, con tôm, con cua, trái cây... cùng các sản phẩm công nghiệp của Cà Mau và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ băng băng vượt sóng trùng khơi, toả đi năm châu bốn biển.

Tại sao không?

 

Tuấn Ngọc

 

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.

Thông tư 20 - Từ quy định đến thực tiễn - Bài cuối: Loay hoay tìm giải pháp

Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 (Chương trình) mở ra nhiều cơ hội mới, nâng cao chất lượng dạy và học, kéo gần khoảng cách giáo dục nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, khi áp dụng Chương trình và thực hiện Thông tư số 20/2023/TT-BGDÐT (Thông tư 20) của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT), nhiều trường vẫn còn loay hoay tìm giải pháp thực hiện.

Thông tư 20 - Từ quy định đến thực tiễn

Thông tư 20/2023/TT-BGDÐT của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) có hiệu lực thi hành vào ngày 16/12/2023. Thông tư hướng dẫn về vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông và các trường chuyên biệt công lập, nhằm chuẩn hoá các điều kiện từ cơ sở vật chất, số lượng giáo viên, nhân viên cho công cuộc đổi mới toàn diện theo Chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018.

Nan giải bài toán “ngọt hoá” - Bài cuối: Cấp thiết nhu cầu quy hoạch

"Chúng ta đang đối mặt những thách thức khách quan lẫn chủ quan. Ðây là vùng đất sản xuất phụ thuộc nước trời; trong 10 năm trở lại đây, có sự biến động bất thường của thời tiết, 3 lần hạn hán nghiêm trọng, dẫn đến nhiều hệ luỵ sạt lở, sụt lún, ảnh hưởng nhiều công trình, sản xuất, đi lại trong vùng ngọt hoá. Mặc dù hệ thống thuỷ lợi với đê bao khép kín nhưng đã được đầu tư cách đây hơn 20 năm, nên việc điều tiết nước trước biến đổi khí hậu đã thay đổi. Do đó, chúng ta cần phải có tính toán, rà soát lại quy hoạch, khắc phục những tồn tại cũng như đáp ứng những nhu cầu cấp thiết mới, để đảm bảo sản xuất vùng ngọt hoá", đó là nhận định, đề xuất của PGS.TS Tô Văn Thanh, Phó viện trưởng Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, đối với vùng ngọt hoá tỉnh Cà Mau.

Nan giải bài toán “ngọt hoá”

Cà Mau là tỉnh ven biển duy nhất có ba mặt giáp biển và cũng là tỉnh duy nhất trong khu vực không có nước ngọt bổ sung từ hệ thống sông Mê Kông. Năm 2002, UBND tỉnh Cà Mau quyết định phê duyệt quy hoạch vùng Bắc Cà Mau là vùng ngọt hoá. Vùng này được chia làm 5 tiểu vùng, trong đó, Tiểu vùng III (thuộc huyện Trần Văn Thời) và phần lớn của Tiểu vùng II (huyện U Minh) hiện còn giữ được ngọt hoá.

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào? - Bài cuối: Tìm lời giải tối ưu

Chăm lo toàn diện đời sống đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) là công việc quan trọng xuyên suốt được Ðảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm; thể chế hoá bằng chủ trương, chính sách, pháp luật. Bằng quyết tâm chính trị cao độ và sức mạnh đồng thuận của cả cộng đồng, tỉnh Cà Mau đã cụ thể hoá các chính sách về đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, lao động DTTS bằng sự linh hoạt, phù hợp với nhiều cách làm hay, hiệu quả.

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào? - Bài 2: Góc nhìn thực tiễn

Ðồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại Cà Mau sống tập trung nhiều tại khu vực nông thôn, với hơn 9 ngàn hộ, chiếm trên 76% tổng số hộ DTTS của tỉnh. Phần lớn địa bàn mà đồng bào DTTS sinh sống thuộc các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động đồng bào DTTS tại địa phương trong thực tế vẫn còn là bài toán với nhiều biến số.

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào?

Ðào tạo nghề, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số (DTTS) để thoát nghèo, cải thiện toàn diện cuộc sống gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS là chủ trương, chính sách ưu việt, nhân văn của Ðảng, Nhà nước, được triển khai thực hiện bằng nhiều nguồn lực, đa dạng các hình thức hỗ trợ.