ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 17-8-25 10:14:28
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Để nghề nuôi tôm phát triển bền vững

Báo Cà Mau

Bài 3: Những hệ lụy

Bài 1: Báo động đỏ về ô nhiễm môi trường
Bài 2: Vì sao nên nỗi?

Những bất cập trong quản lý nuôi trồng thủy sản đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững. Hệ quả của nó là gây nên sự phát triển mất cân đối và tạo nên những áp lực nặng nề cho nền kinh tế. Đặc biệt là nguy cơ làm hủy hoại môi trường sống, mất thị trường tiêu thụ và doanh nghiệp có thể bị phá sản vì hàng hóa kém chất lượng.

Chi hàng trăm tỷ đồng cho phòng chống dịch bệnh

Xuất phát từ việc thiếu những định hướng chiến lược, thiếu những giải pháp bền vững trong phát triển nghề nuôi tôm, nên cả ngành quản lý và người nuôi tôm cứ phải lo chạy “vắt giò” cho việc chống dịch, thay vì chủ động phòng dịch. Mỗi năm, Nhà nước phải bỏ ra hàng chục tỷ đồng cho công tác phòng chống dịch bệnh trên tôm. Đơn cử như năm 2011 là 17 tỷ đồng. Và dự toán kinh phí phòng chống dịch bệnh trên tôm năm 2012 cũng hơn 23 tỷ đồng. Đó là chưa kể đến con số hàng chục tỷ đồng do nông dân tự đầu tư thuốc thú y thủy sản, các loại hóa chất khác để xử lý dịch bệnh trên tôm. Vậy mà tôm vẫn chết và cứ thay nhau “ăn” mất đất, mất nhà của nông dân. Kéo theo đó là nhiều nông dân mang cảnh nợ nần chồng chất từ những năm 2000 và đến nay vẫn chưa trả hết. Riêng huyện Hòa Bình, nợ cho vay nuôi tôm đã hơn 90 tỷ đồng, trong đó có 84 tỷ đồng từ 2.472 hộ nuôi rơi vào khung nợ xấu, không có khả năng thanh toán.

Việc tìm giải pháp để nâng cao giá trị xuất khẩu hiện nay là rất cần thiết. Trong ảnh: Chế biến tôm xuất khẩu tại Công ty TNHH Một thành viên thủy sản Tân Phong Phú (huyện Hòa Bình).

Mỗi năm, Nhà nước và nông dân phải đổ hàng chục tỷ đồng cho xử lý dịch bệnh, nhưng môi trường vẫn bị ô nhiễm nặng nề từ nhiều loại hóa chất, nhất là việc lạm dụng các loại thuốc không rõ nguồn gốc từ nông dân. Báo cáo về môi trường của tỉnh năm 2011 cho thấy, diễn biến nồng độ của nhiều chất trong môi trường đã vượt mức giới hạn, quy chuẩn cho phép. Nếu không có giải pháp khắc phục ngay bây giờ sẽ tác động xấu đến môi trường, hủy hoại hệ sinh thái, nguồn lợi thủy sản và các loại thủy sinh khác. Đơn cử như nồng độ Amonia trong mặt nước ở vùng Nam Quốc lộ (QL) 1A trong mùa khô vượt quy chuẩn cho phép từ 1,06 - 1,56 lần; hay nồng độ Nitrir vượt quy chuẩn từ 1,53 - 2,88 lần; hoặc nồng độ BOD, COD cũng vượt quy chuẩn cho phép… Nghiêm trọng nhất là nước thải (không qua xử lý) từ các công ty chế biến thủy sản xuất khẩu xả thải trực tiếp ra kênh xáng Bạc Liêu - Cà Mau làm môi trường ô nhiễm nặng nề. Trong khi đó, có đến hàng trăm hộ nuôi tôm nằm giáp với QL 1A đều lấy nước nuôi trồng thủy sản từ kênh xáng này!

Doanh nghiệp kêu trời!

Do ô nhiễm môi trường sản xuất, nên các doanh nghiệp xuất khẩu đã phải sử dụng nhiều loại hóa chất để xử lý tôm trước khi đưa vào chế biến. Vì nếu không, chỉ cần một lô hàng xuất khẩu bị phát hiện tôm nhiễm kháng sinh, doanh nghiệp coi như phá sản. Đối với các nước nhập khẩu, khi phát hiện hàng hóa của một đơn vị, công ty không đảm bảo chất lượng, thì họ không chỉ tẩy chay hàng hóa, mà còn đăng tải tên của công ty ấy trên các phương tiện thông tin đại chúng để các công ty nhập khẩu thủy sản khác không hợp tác kinh doanh.

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của tỉnh, trong hợp tác kinh doanh với các công ty nước ngoài, chỉ cần bị mất uy tín một lần coi như mất thị trường mãi mãi. Biết vậy, nhưng không lẽ lô tôm nào trước khi đưa vào nhà máy, doanh nghiệp cũng phải bốc mẫu đem đi xét nghiệm, bởi giá phân tích mẫu rất cao. Chỉ tính riêng phân tích chỉ tiêu xem tôm có bị nhiễm kháng sinh cấm hay không, doanh nghiệp phải bỏ ra từ 4 - 5 triệu đồng/mẫu. Nếu phân tích thêm các chỉ tiêu khác để đảm bảo an toàn tuyệt đối thì trên 10 triệu đồng/mẫu, lại phải mất nhiều thời gian. Vả lại, việc bốc mẫu lại mang tính ngẫu nhiên, nên chuyện “hên xui” cũng thường xảy ra. Trong hàng trăm ngàn con tôm nguyên liệu, một vài mẫu được bốc ra đem đi phân tích biết đâu lại là con tôm bị nhiễm kháng sinh! Đó là chưa kể đến chuyện do thiếu nguồn tôm phục vụ cho chế biến, doanh nghiệp đành phải mua tôm bơm chích tạp chất để thanh toán với các đơn hàng đã ký kết. Và đã mua tôm bơm chích tạp chất thì phải dùng hóa chất để xử lý. Việc làm “bất đắc dĩ” này lại tốn thêm một khoản chi phí không nhỏ trong việc làm sạch con tôm.

Mỗi năm, nông dân sản xuất khoảng 70.000 - 80.000 tấn tôm nguyên liệu, nhưng lượng tôm đưa vào các nhà máy chế biến chỉ khoảng 30 - 40%. Trong ảnh: Thu hoạch tôm ở xã Vĩnh Trạch Đông, TP. Bạc Liêu. Ảnh: L.D

Những áp lực về nguồn nguyên liệu phục vụ cho chế biến và hàng loạt chi phí phát sinh khác đã làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu thêm đuối sức. Ông Hồ Văn Bạch, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty TNHH thực phẩm - thủy sản Minh Bạch (huyện Giá Rai) nói: “Nếu nông dân không lạm dụng các chất kháng sinh cấm trong nuôi tôm, thì doanh nghiệp xuất khẩu đâu có gánh thêm nỗi lo về hàng hóa không đảm bảo chất lượng và cả chi phí xử lý. Và dù biết nguồn tôm không đảm bảo chất lượng, nhưng các nhà máy cũng phải mua để có hàng xuất khẩu và giữ chân công nhân. Cuộc chạy đua này nếu còn kéo dài chỉ có “chết cả đám”. Doanh nghiệp thì tự triệt nhau, người nuôi tôm thì không quan tâm đến chất lượng hàng hóa do chính mình sản xuất”.

Khổ vì mạnh ai nấy làm!

Thực trạng trong sản xuất nuôi trồng, chế biến thủy sản xuất khẩu cho thấy, mối liên kết trong chuỗi giá trị từ cánh đồng đến nhà máy qua hơn 10 năm chuyển đổi sản xuất vẫn chưa được hình thành. Nạn “mạnh ai nấy làm” là nguyên nhân cơ bản để Bạc Liêu chưa thể phát huy hết các tiềm năng, thế mạnh từ ngành kinh tế mũi nhọn này. Đồng thời làm nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn đẩy người nuôi tôm và doanh nghiệp xuất khẩu lâm vào cảnh khó khăn.

Doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu cứ than thiếu nguồn tôm nguyên liệu, phải mua tôm bơm chích tạp chất, nhưng lại không liên kết sản xuất với người nông dân. Bằng chứng là mỗi năm Bạc Liêu sản xuất trung bình khoảng 70.000 - 80.000 tấn tôm, nhưng lượng tôm được đưa vào các nhà máy chế biến chỉ khoảng 30 - 40%. Cụ thể, năm 2008, sản lượng tôm nuôi đạt gần 64.000 tấn, nhưng chế biến xuất khẩu chỉ hơn 24.000 tấn. Hay năm 2009, tôm nuôi đạt 68.200 tấn, nhưng chế biến xuất khẩu chỉ thực hiện 26.366 tấn. Hoặc năm 2010, sản lượng tôm nuôi đạt 67.595 tấn, nhưng chế biến xuất khẩu chỉ dừng ở con số 25.443 tấn. Ngay cả năm 2011, xuất khẩu tôm được coi là được mùa nhưng cũng chỉ chế biến xuất khẩu 23.600 tấn (trên tổng sản lượng tôm nuôi là 87.600 tấn). Từ đó, vấn đề đặt ra, hơn 60% nguồn tôm nguyên liệu chạy đi đâu? Liên tiếp trong nhiều năm qua, Bạc Liêu đã mất đi hàng trăm triệu USD/năm mang lại từ con tôm xuất khẩu và nguồn thu thuế từ con tôm nguyên liệu bị thất thoát.

Sự khủng hoảng và liên tiếp vỡ nợ của nhiều đại gia xuất khẩu thủy sản khu vực ĐBSCL và một số doanh nghiệp xuất khẩu tầm cỡ của tỉnh cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về những nguy cơ, rủi ro mà các doanh nghiệp xuất khẩu của tỉnh phải đương đầu. Các doanh nghiệp xuất khẩu của tỉnh có bị cuốn vào vòng xoáy khủng hoảng này hay không? Nếu không, thì cần phải làm gì khi sự tồn tại của các doanh nghiệp xuất khẩu có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của nghề nuôi tôm… Những câu hỏi ấy cần được phân tích, làm rõ.

Bài 4: Nan giải bài toán giá trị

Lư Dũng

Nông dân kỳ vọng giá lúa giữ đà tăng

Vụ lúa hè thu ở nhiều địa phương tỉnh đang vào giai đoạn trổ chín, dự kiến thu hoạch giữa tháng 8. Sau thời gian giá thấp, từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8/2025, giá lúa bắt đầu tăng nhẹ, tạo tín hiệu tích cực cho nông dân.

Phát huy tiềm năng carbon xanh

Sáng 7/8, tại xã Đất Mới, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Cà Mau tổ chức Hội thảo thiết kế dự án đánh giá tính khả thi để thiết kế, đề xuất dự án tín chỉ carbon xanh.

Phong Hiệp vươn lên với nhiều mô hình kinh tế hiệu quả

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, ở xã Phong Hiệp xuất hiện nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân. Nổi bật là các mô hình chăn nuôi và chế biến thuỷ sản, thể hiện tinh thần vượt khó, dám nghĩ, dám làm của nông dân và phụ nữ địa phương.

Khảo sát các mô hình kinh tế hiệu quả tại xã U Minh

Sáng 6/8, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND xã Lê Hồng Thịnh dẫn đầu đoàn công tác có chuyến tham quan, khảo sát các mô hình kinh tế hiệu quả trên địa bàn xã U Minh.

Quảng bá hình ảnh đất và người Cà Mau

Sau thời gian thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) không chỉ làm phong phú thêm hàng hoá mang thương hiệu địa phương mà còn tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân nông thôn. Đặc biệt, khi sản phẩm được chứng nhận đạt chuẩn OCOP, cơ hội nâng cao giá trị và mở rộng thị trường được mở ra rõ rệt.

Từ nghề bán vé số đến trại nấm bạc triệu

Trước đây, gia đình anh Nguyễn Văn Phát, ấp Phước Hoà Tiền, xã Phước Long, chủ yếu sống bằng nghề bán vé số, thu nhập bấp bênh. Song, từ khi được Hội Phụ nữ địa phương giới thiệu, hỗ trợ tiếp cận Chương trình sinh kế của Hợp tác xã (HTX) Nấm sạch Hoà Tiền. Anh đã mạnh dạn thử nghiệm mô hình trồng nấm bào ngư xám và nhanh chóng đem lại hiệu quả rõ rệt, thu nhập ổn định, cuộc sống khấm khá hơn.

Nguyễn Việt Khái - Phủ xanh đất mặn, phát triển thủy sản bền vững 

Được hợp nhất từ 3 xã: Tân Hưng Tây, Việt Thắng và Rạch Chèo (huyện Phú Tân cũ), xã Nguyễn Việt Khái không chỉ mở rộng địa giới hành chính mà còn tạo cú hích mạnh mẽ cho kinh tế địa phương, nổi bật ở hai lĩnh vực: nông nghiệp thích ứng trên đất mặn và nuôi trồng thủy sản bền vững.

“Địa chỉ xanh” chuyên canh hoa màu

Từ sáng sớm, không khí tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp và tưới tiêu Quyết Tiến (HTX Quyết Tiến, ấp Mỹ I, xã Phước Long) rộn ràng như phiên chợ nhỏ. Người thu hoạch, người phân loại, người bốc xếp bắp, mướp hương lên xe để kịp chuyển hàng đến các chợ đầu mối ở TP Hồ Chí Minh. Mỗi người một tay, nhịp nhàng và hối hả, như chính nhịp thở đầy sức sống của vùng chuyên canh hoa màu đang vươn mình mạnh mẽ.

“Mái ấm” của những hộ nghèo sống ven biển

Vùng bãi bồi ven biển Vĩnh Thịnh (xã Vĩnh Hậu) là nơi mưu sinh của hàng trăm hộ nghèo, đặc biệt là hộ đồng bào dân tộc Khmer. Hợp tác xã nghêu Đồng Tiến (HTX Đồng Tiến), xã Vĩnh Hậu, ra đời đã trở thành điểm tựa vững vàng cho các hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ven biển. Những năm qua, HTX không chỉ là nơi tạo việc làm mà còn là “mái ấm” giúp người dân có cuộc sống ổn định, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Nỗ lực hồi sinh rừng phòng hộ ven biển, thích ứng biến đổi khí hậu

Trong 2 ngày (29-30/7), Ban Quản lý rừng đặc dụng và Rừng phòng hộ ven biển (thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cà Mau) phối hợp với Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng trồng và phục hồi rừng phòng hộ ven biển tại xã Vĩnh Hậu, tỉnh Cà Mau. Đồng thời, tập huấn “Nâng cao năng lực cộng đồng về nuôi trồng thủy sản bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu” cho người dân địa phương.