Trong tháng 7/2016, có thời điểm giá vàng lên đến 3,7 triệu đồng/chỉ (tăng 500.000 - 700.000 đồng/chỉ so với trước đó). Giá vàng tuy có “sốt”, nhưng thị trường vàng tại Bạc Liêu trong tháng 7/2016 khá bình lặng. Câu chuyện giá vàng cũng đặt ra nhiều vấn đề trong khai thác và sử dụng các nguồn vốn hiện nay.
Nông dân vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh huyện Phước Long. Ảnh: Tú Anh
Theo các chủ tiệm vàng, trong tháng 7/2016, giá vàng tuy tăng khá cao, nhưng hoạt động mua bán vàng vẫn diễn ra bình thường, thậm chí lượng vàng bán ra giảm hơn so với những tháng trước đó. Thực tiễn qua nhiều năm cho thấy, giá vàng chỉ tăng vào các tháng cuối năm, do nhu cầu cưới gả, mua sắm nữ trang đeo vào dịp tết; hoặc vào các đợt thu hoạch tôm, lúa nông dân thường mua sắm vàng để tích trữ; hay vào đầu mùa vụ thì bán vàng để lấy tiền đầu tư cho sản xuất...
Có thể nói, việc nông dân tích trữ vàng vốn là thói quen lâu nay và gần như rất khó thay đổi. Bà Thái Thị Thêm (xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi) cho biết: “Việc nông dân mua và cất vàng đã thành tập quán. Cứ mỗi vụ lúa, sau khi trả tiền công cắt và thanh toán tiền phân bón, nông dân lại đi mua vàng, dù giá vàng lúc đó có cao vài trăm ngàn đồng/chỉ thì nông dân vẫn cứ mua, họ ngại cất giữ tiền mặt trong nhà”.
Sở dĩ nông dân có thói quen tích trữ vàng, ngoài tâm lý để dành cho con cháu, lo hậu sự, còn xuất phát từ nhu cầu và thích giao dịch bằng vàng ở vùng nông thôn lâu nay. Từ chuyện mua đất, mượn nợ, sang nhà… họ gần như đều sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán. Xuất phát từ tâm lý ưa chuộng vàng, nên số lượng vàng cất trữ trong dân rất nhiều, thay vì chuyển đổi thành tiền gửi vào các ngân hàng để sinh lãi và giảm rủi ro.
Bà N.T.N, Giám đốc một ngân hàng ở huyện Hồng Dân, chia sẻ: “Nhiều nông dân rất giàu. Nếu thuyết phục và tạo được lòng tin ở họ thì có thể huy động họ gửi tiền vào ngân hàng cả tỷ đồng. Nguồn vốn này sẽ giúp nhiều hộ nông dân có vốn sản xuất và làm giảm áp lực cho ngân hàng trong huy động vốn”.
Thực trạng trên cho thấy, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân còn rất lớn và gần như chưa được khai thông. Trong khi đó, doanh nghiệp lại rất cần vốn để sản xuất, kinh doanh. Các ngân hàng phải chạy đua để huy động vốn, và hơn 90% vốn các ngân hàng cho vay hiện nay chủ yếu từ nguồn vốn huy động. Từ việc chạy đua huy động vốn sẽ đẩy lãi suất cho vay lên cao (vì huy động cao thì cho vay cao mới có lãi). Điều này làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn lãi suất ưu đãi. Đồng thời, doanh nghiệp chỉ dám vay những khoản vay ngắn hạn, ngại đầu tư cho những dự án lớn, dài hơi khi phải cõng lãi suất ngân hàng quá cao. Cụ thể, trong tổng dư nợ 17.000 tỷ đồng cho vay phát triển sản xuất, kinh doanh trong 6 tháng đầu năm 2016, có đến 9.100 tỷ đồng cho vay ngắn hạn, chiếm 53,53%, còn lại là trung và dài hạn. Cũng chính khó khăn này mà nhiều doanh nghiệp than thở: “Cứ quay đi quay lại là đóng lãi và thanh toán nợ ngân hàng”.
Đồng vốn nhàn rỗi nếu được khai thông sẽ mang lại nhiều hiệu ứng tích cực. Còn tiền bị đổi thành vàng cất trong các tủ của người nông dân chẳng khác nào “vốn chết”, chẳng bao giờ sinh lãi. Nếu các ngân hàng làm tốt công tác huy động, chắc chắn đồng vốn này sẽ linh hoạt hơn và góp phần làm giảm các áp lực về lãi suất cho vay.
Có vốn, doanh nghiệp sẽ có điều kiện đầu tư, mở rộng sản xuất, giải quyết nhiều việc làm hơn. Song, muốn làm được điều này, các ngân hàng phải tạo được lòng tin, hiệu quả hoạt động và có bảo hiểm tiền gửi cho người dân.
KIM TRUNG