ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 07:40:15
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Đi B

Báo Cà Mau Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.

Người già hay sống hoài niệm, đánh đàn cũng là cách ông giải toả tâm tư, gửi gắm nỗi niềm. Khi tôi hỏi chuyện đi B, vị bác sĩ ngoài “bát thập” lại bồi hồi...

Ðánh đàn, gặp gỡ bạn bè là niềm vui tuổi xế chiều của Bác sĩ Nguyễn Văn Thể.

Ðánh đàn, gặp gỡ bạn bè là niềm vui tuổi xế chiều của Bác sĩ Nguyễn Văn Thể.

Tiếng gọi miền Nam

Là học sinh miền Nam, tập kết ra Bắc năm 12 tuổi, tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1970, Bác sĩ Thể được phân công về Nam, gọi là đi B.

“Có tên vậy, nhưng không bắt buộc đi, phải đủ sức khoẻ và tinh thần tình nguyện tuyệt đối”, ông bảo.

“Miền Nam bom đạn đầy trời, mình có đắn đo khi trở về?”, tôi thăm dò. Giọng ông dứt khoát: “Không. Phấn khởi lắm, được về quê hương mà. Mười mấy năm xa quê rồi. Hai tiếng “miền Nam” thiêng liêng lắm, nhắc tới là cảm xúc dâng trào!...”.

Đường Trường Sơn đầy gian khổ, có những vách núi dựng đứng phải đu dây mới lên được. Khi thì lội qua suối sâu. Ông nói: “Cái hay là, lúc đó ai cũng được phát một tấm ni lông, ngoài che mưa còn dùng bọc ba lô cho khỏi ướt khi qua sông suối, vừa làm phao. Ròng rã 3 tháng trời trong rừng, cứ sáng sớm là hành quân, tới chiều nghỉ. Đi phải bám theo giao liên, không được chậm, chậm là bị lạc...”.

Năm 1961, Soạn giả cải lương Nguyễn Ngọc Cung (quê Cà Mau), người có rất nhiều sáng tác giá trị phục vụ văn nghệ kháng chiến, cũng đi B. Theo lời kể của anh Nguyễn Ngọc Bình (con trai soạn giả, hiện ngụ Phường 2, TP Cà Mau), cha anh ban đầu về công tác ở Chi hội Văn nghệ miền Nam, đóng tại U Minh. Một thời gian thì được điều lên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương Cục miền Nam, tại Tây Ninh. Năm 1966, trong một trận bừa của bom B52 vào căn cứ, ông và một số đồng đội đã hy sinh.

Hồi ấy, miền Bắc là hậu phương lớn, ngoài cưu mang, nhường cơm sẻ áo cho cán bộ, bộ đội, học sinh miền Nam tập kết, còn sản xuất, cung cấp lương thực, hàng hoá cho chiến trường miền Nam và chi viện người. Thuật ngữ “đi B” còn dành chỉ những người con miền Bắc thực hiện nghĩa cử cao đẹp này.

“Đi cùng đoàn về Nam còn có nhiều thanh niên từ miền Bắc. Mình về quê háo hức, chấp nhận gian khổ đã đành, còn họ vào nơi xa lạ, hiểm nguy nhưng cũng tuyệt nhiên không nghe một lời phàn nàn, than vãn”, Bác sĩ Thể thán phục.

“Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”, cuộc sống hoà bình, người lính đi B Ðỗ Anh Tuấn trở lại giấc mơ giảng đường đại học, làm thầy giáo, theo một nửa của mình về quê Cà Mau công tác, dạy dỗ bao thế hệ học trò. (Ảnh nhân vật cung cấp).

“Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”, cuộc sống hoà bình, người lính đi B Ðỗ Anh Tuấn trở lại giấc mơ giảng đường đại học, làm thầy giáo, theo một nửa của mình về quê Cà Mau công tác, dạy dỗ bao thế hệ học trò. (Ảnh nhân vật cung cấp).

Tôi chợt nhớ và tìm gặp “anh bộ đội miền Bắc đi B” là Nhà giáo Ưu tú Đỗ Anh Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Hồ Thị Kỷ (TP Cà Mau), cũng là thầy dạy tôi từ hơn 30 năm trước. Qua thầy, tôi hiểu thêm phần nào câu chuyện đi B này.

“Quê thầy ở Hà Tây - Hà Nội. Lúc ấy hầu như gia đình nào cũng có người đi bộ đội, đóng góp cho miền Nam. Nhà thầy thì chưa có ai, trên là chị gái, dưới các em còn nhỏ, vậy là đang học lớp cuối cấp (lớp 10 hồi ấy), có đợt khám nghĩa vụ quân sự, thầy đăng ký ngay, mặc thầy chủ nhiệm can ngăn. Khi khám, sức khoẻ ổn, nhưng người thấp bé, nhẹ cân, chỉ 39 kg, bác sĩ khuyên học cho xong rồi đi, thầy không nghe. Biết đường Trường Sơn rất gian khổ và chiến trường miền Nam thì ác liệt nên thầy có ý chí rèn luyện dữ lắm. Sau hơn năm trời huấn luyện tại đơn vị, thầy tăng lên 46 kg, đeo được 33 kg, chỉ sau một anh đeo 35 kg”, thầy hào hứng nhớ lại.

Vậy là cuối năm 1972, thầy đi B. Tôi vẫn thăm dò như với Bác sĩ Thể: “Khi tình nguyện đi, thầy có suy nghĩ giữa sự sống và chết?”. Thầy trả lời ngay: “Nói chung không riêng mình, anh em cùng vào chiến trường B đều xác định đi là chết, không nghĩ đến ngày trở về, nhưng vẫn đi và quyết đi tới cùng. Hồi đó khí thế lắm, nhiệt huyết lắm. Anh em, đồng đội thầy, nhiều người còn xăm vô cánh tay dòng chữ “sinh Bắc, tử Nam”. Xác định như vậy thì nó nhẹ, chứ đi mà sợ chết thì làm sao dám ra trận”.

Biết trước ra đi là lao vào chỗ chết và bao người con miền Nam, miền Bắc đi B đã mãi không trở về, vậy mà người đi không hề nao núng, chẳng so tính thiệt hơn?! Chợt nhớ đến mấy câu trong trường ca của Nhà thơ Thanh Thảo mà nao lòng, nể phục:

“Chúng tôi đi không tiếc đời mình

(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”

(Trường ca “Những người đi tới biển”)

Một thời tuổi trẻ sống thật hay và cao đẹp biết dường nào!

Ấm tình đồng đội, nghĩa đồng bào

Vào Nam, đơn vị thầy thuộc Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 2, Sư đoàn 4, Quân khu 9. Địa bàn hoạt động trải dài từ Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu. Câu chuyện hành quân mấy năm trời nơi chiến trường ác liệt của bộ đội chủ lực mà chỉ gói gọn trong vài giờ thì không thể nào kể hết, nhưng vẫn sâu đậm trong thầy tình đồng đội và tình yêu thương của Nhân dân miền Nam.

“Hồi đó, các má, các chị cứ nói, thương nhất là bộ đội miền Bắc rồi mới đến bộ đội miền Nam. Bởi bộ đội miền Nam mà bệnh, bị thương, nhắn cái là có cha mẹ, người thân đến thăm; còn bộ đội miền Bắc vào trong này, sống chết thế nào cha mẹ không biết, thành ra thương lắm. Có lần thầy bị sốt rét (lúc đó ở cứ của đơn vị tại kênh xáng Nhà Lầu, xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang), mấy má, mấy chị tới thăm rồi khóc, về còn cho tiền. Mà mình khi ấy đang sốt mê man có biết gì, tỉnh lại nghe nói”. Những kỷ niệm thân thương như thế luôn ấm áp lòng thầy.

Trong câu chuyện, tình đồng đội được thầy nhắc nhiều và đầy xúc động. “Bạn của thầy nhiều người hy sinh lắm. Thầy nhớ hồi ấy có quy định, khi đi B không được ghi bất cứ địa chỉ nào, sợ nhất đối phương lấy được đồ đạc, thấy địa chỉ rồi đưa lên đài tuyên truyền này nọ, tác động đến tâm lý đồng đội, người nhà mình. Thế là khi huấn luyện, tổ 3 người gồm thầy, 2 anh Huyền, Minh bàn tính, đi chiến trường chẳng biết sống chết ra sao, phải học thuộc địa chỉ của nhau, để đứa nào chết thì những đứa còn lại biết, báo cho gia đình. Khi vào, cùng trung đoàn nhưng khác đơn vị, lâu lâu gặp nhau cũng kiểm tra coi còn nhớ không. Cuối cùng 2 người bạn ấy hy sinh”, giọng thầy bùi ngùi.

Một hồi ức đẹp khác về tình đồng đội: “Lúc về miền Tây, sau khi hành quân qua đất Campuchia, qua kênh Vĩnh Tế, đến Tỉnh đội Long Châu Hà (Long Xuyên - Châu Đốc - Hà Tiên bấy giờ), thầy bị sốt rét, đơn vị tính bàn giao cho Tỉnh đội Long Châu Hà. Chiều đó chuẩn bị hành quân (đêm đi, ngày nghỉ), bạn bè, đồng đội đến chia tay, họ ôm thầy khóc và bảo, vào đến đây rồi mà phải bỏ mày nơi này, tụi tao đi...; bom đạn chiến trường không biết có còn được gặp lại... Thầy cảm động quá, đang sốt quyết gượng dậy đi luôn. Ba lô đồng đội đeo giúp, mình chỉ quảy súng đạn. Cứ lội hết con kênh này đến kênh nọ, quần áo hơi se khô lại ướt tiếp, thậm chí có đoạn lội sình lầy quá gối... Thấy đường dài, vất vả mà đồng đội còn đeo thêm ba lô của mình, thầy lấy lại đeo. Hành quân như vậy tới sáng, hết sốt luôn”.

Với Nhà giáo Ưu tú Ðỗ Anh Tuấn (bìa phải), tình đồng đội càng bền chặt qua những lần gặp gỡ, thăm hỏi, họp mặt cùng nhau. (Ảnh nhân vật cung cấp).

Với Nhà giáo Ưu tú Ðỗ Anh Tuấn (bìa phải), tình đồng đội càng bền chặt qua những lần gặp gỡ, thăm hỏi, họp mặt cùng nhau. (Ảnh nhân vật cung cấp).

Thêm một kỷ niệm khó quên được thầy kể: “Cuối năm 1974, trong trận đánh Chi khu Hương Long ở Gò Quao, Kiên Giang, đơn vị thầy được giao nhiệm vụ ém trong ruộng lúa để đánh đón đầu 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 31 địch tới giải vây. Thầy đi đầu, bị trúng đạn, một đồng đội nói: “Thằng Tuấn bị thương rồi”, thế là tất cả tràn lên, lòng căm thù như đẩy lên cao, không còn biết sợ”...

Bác sĩ Nguyễn Văn Thể khi về Nam tham gia phục vụ chuyên môn cho các đơn vị và sau giải phóng tiếp tục cống hiến sức mình cho quê hương đến ngày nghỉ hưu. Còn người lính trẻ Đỗ Anh Tuấn thì thực hiện tiếp giấc mơ giảng đường đại học và làm thầy giáo. Trong những bài giảng của thầy thấp thoáng những hố bom, những cuộc hành quân gian khổ, lý tưởng sống cao đẹp của tuổi trẻ một thời từng được trải... làm cuốn hút bao thế hệ học trò.

Bao nhiêu năm rồi, đất nước khoác lên mình sắc màu tươi mới, thời gian phủ dầy lên ký ức, nhưng tình đồng đội thì vẫn vẹn nguyên. Những nén hương cho người ngã xuống, những cuộc họp mặt, những chuyến thăm nhau càng bền chặt nghĩa tình.

Còn với đất nước, non sông, những câu chuyện đẹp của một thời “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” ấy, thì vẫn luôn rì rầm nhắc nhớ...

 

Trang Anh

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.